Bước tới Đèo
Ngang1 bóng xế tà,
Cỏ cây chen lá,
đá chen hoa.
Lom khom dưới
núi tiều vài chú,
Lác đác bên sông
rợ mấy nhà.
Nhớ nước đau
lòng con quốc quốc2,
Thương nhà mỏi
miệng cái gia gia3.
Dừng chân đứng lại:
trời, non, nước,
Một mảnh tình
riêng ta với ta.
(Bà Huyện Thanh Quan, Tổng tập văn học Việt Nam, Tập 14, NXB
Khoa học xã hội, Tr. 979)
Chú thích:
(1) Đèo Ngang:
Nằm trên đường thiên lý Bắc - Nam, trên dải Hoành Sơn thuộc rặng Trường Sơn,
đâm ngang ra biển; ngăn cách địa giới hai tỉnh Hà Tĩnh và Quảng Đình.
(2) Quốc quốc:
Chim cuốc; tiếng kêu nghe như “quốc quốc”, vì vậy các nhà Nho bèn lấy loài chim
này để chuyển dịch tên chim Đỗ Quyên hoặc Tử Quy, tương truyền là hồn Vọng đế
nước Thục, mất nước, hóa thành chim, ngày đêm nhớ nước, tiếng kêu nghe thảm thiết.
(3) Gia gia:
Chim đa đa, cũng có tên là “gà gô”.
Tiểu sử Bà
Huyện Thanh Quan
Bà Huyện Thanh
Quan, tên thật là Nguyễn Thị Hinh, quê ở làng Nghi Tàm, hiện thuộc quận Tây Hồ,
Hà Nội. Hiện chưa rõ năm sinh và năm mất của bà, nhưng cuộc đời và sự nghiệp của
bà gắn liền với thế kỷ XIX.
Chồng bà, ông
Lưu Nghị, làm tri huyện Thanh Quan (nay thuộc tỉnh Thái Bình), vì vậy, bà được
gọi là Bà Huyện Thanh Quan.
Bà là một trong
những nữ sĩ tài danh hiếm có của văn học Việt Nam thời trung đại.
Phong cách
sáng tác của Bà Huyện Thanh Quan
Thơ của Bà Huyện
Thanh Quan mang đậm dấu ấn của văn học trung đại Việt Nam, với những chủ đề như
hoài cổ, tình yêu quê hương và nỗi nhớ về thời vàng son đã qua.
Các sáng tác của
Bà Huyện Thanh Quan có lời thanh nhã, ý cổ kính, thường mang nặng nỗi u hoài nhớ
tiếc quá khứ của vương triều Lê và Thăng Long.
Một số bài thơ
tiêu biểu của Bà Huyện Thanh Quan
Mặc dù không sáng tác nhiều, những bài thơ của Bà Huyện Thanh Quan vẫn để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng người đọc. Hầu hết các tác phẩm của bà được viết bằng chữ Nôm, theo thể thơ Đường luật, với những bài nổi bật như: Thăng Long thành hoài cổ, Chùa Trấn Bắc, Qua Đèo Ngang, Chiều hôm nhớ nhà, Tức cảnh chiều thu, Cảnh đền Trấn Võ, Cảnh Hương Sơn…