Trấn Bắc hành cung1 cổ
dãi dầu,
Khách qua đường dễ chạnh niềm đau.
Mấy dò sen rớt hơi hương ngự2,
Năm thức3 mây phong nếp
áo chầu.
Sóng lớp phế hưng4 coi đã
rộn,
Chuông hồi kim cổ lắng càng mau.
Người xưa, cảnh cũ, nào đâu tá,
Khéo ngẩn ngơ thay lũ trọc đầu!
(Bà Huyện Thanh Quan, Tổng tập văn học Việt Nam, Tập 14, NXB
Khoa học xã hội, Tr. 978)
Chú thích:
(1) Chùa Trấn
Bắc: Tức chùa Trấn Quốc (bên Hồ Tây) hiện nay. Thời nhà Lý, ở nơi đây có dựng
cung Thúy Hoa; đời Trần có điện Hàm Nguyên; đời Lê, chúa Trịnh có cho dựng hành
cung ở đây để lấy chỗ vui chơi thưởng ngoạn.
(2) Hương ngự:
Hơi của vua còn sót lại
(3) Năm thức:
Năm vẻ, năm màu. Thời xưa quan niệm mây hội đủ năm màu là báo thời buổi thái
bình.
(4) Phế hưng:
Bỏ đi và hưng thịnh, chỉ các triều đại thay đổi: Lê, Tây Sơn, Nguyễn.
Tiểu sử Bà
Huyện Thanh Quan
Bà Huyện Thanh
Quan, tên thật là Nguyễn Thị Hinh, quê ở làng Nghi Tàm, hiện thuộc quận Tây Hồ,
Hà Nội. Hiện chưa rõ năm sinh và năm mất của bà, nhưng cuộc đời và sự nghiệp của
bà gắn liền với thế kỷ XIX.
Chồng bà, ông
Lưu Nghị, làm tri huyện Thanh Quan (nay thuộc tỉnh Thái Bình), vì vậy, bà được
gọi là Bà Huyện Thanh Quan.
Bà là một trong
những nữ sĩ tài danh hiếm có của văn học Việt Nam thời trung đại.
Phong cách
sáng tác của Bà Huyện Thanh Quan
Thơ của Bà Huyện
Thanh Quan mang đậm dấu ấn của văn học trung đại Việt Nam, với những chủ đề như
hoài cổ, tình yêu quê hương và nỗi nhớ về thời vàng son đã qua.
Các sáng tác của
Bà Huyện Thanh Quan có lời thanh nhã, ý cổ kính, thường mang nặng nỗi u hoài nhớ
tiếc quá khứ của vương triều Lê và Thăng Long.
Một số bài thơ
tiêu biểu của Bà Huyện Thanh Quan
Mặc dù không sáng tác nhiều, những bài thơ của Bà Huyện Thanh Quan vẫn để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng người đọc. Hầu hết các tác phẩm của bà được viết bằng chữ Nôm, theo thể thơ Đường luật, với những bài nổi bật như: Thăng Long thành hoài cổ, Chùa Trấn Bắc, Qua Đèo Ngang, Chiều hôm nhớ nhà, Tức cảnh chiều thu, Cảnh đền Trấn Võ, Cảnh Hương Sơn…