Trời chiều bảng
lảng Bóng hoàng hôn,
Tiếng ốc1
xa đưa vẳng trống đồn.
Gác mái ngư ông
về viễn phố2,
Gõ sừng mục tử3
lại cô thôn.
Ngàn mai gió cuốn
chim bay mỏi,
Dặm liễu4
sương sa khách bước dồn.
Kẻ chôn Chương
Đài5 người lữ thứ,
Lấy ai mà kể nỗi
hàn ôn.
(Bà Huyện Thanh Quan, Tổng tập văn học Việt Nam, Tập 14, NXB
Khoa học xã hội, Tr. 980)
Chú thích:
(1) Ốc:
Tiếng tù và.
(2) Viền phố:
Bến sông xa.
(3) Mục tử:
Trẻ chăn trâu.
(4) Dặm liễu:
Đường có trồng liễu, thường là được dùng để nói về đường dài, dẫn đến nơi xa.
(5) Chương Đài: Vốn là tên một lâu đài trong cung nhà Tần thời Chiến Quốc, thời Hán vẫn còn; ở Trường An thời Hán có phố Chương Đài... về sau, trong văn thơ, Chương Đài được dùng để nói về nơi ở của người quyền quý.
Tiểu sử Bà
Huyện Thanh Quan
Bà Huyện Thanh
Quan, tên thật là Nguyễn Thị Hinh, quê ở làng Nghi Tàm, hiện thuộc quận Tây Hồ,
Hà Nội. Hiện chưa rõ năm sinh và năm mất của bà, nhưng cuộc đời và sự nghiệp của
bà gắn liền với thế kỷ XIX.
Chồng bà, ông
Lưu Nghị, làm tri huyện Thanh Quan (nay thuộc tỉnh Thái Bình), vì vậy, bà được
gọi là Bà Huyện Thanh Quan.
Bà là một trong
những nữ sĩ tài danh hiếm có của văn học Việt Nam thời trung đại.
Phong cách
sáng tác của Bà Huyện Thanh Quan
Thơ của Bà Huyện
Thanh Quan mang đậm dấu ấn của văn học trung đại Việt Nam, với những chủ đề như
hoài cổ, tình yêu quê hương và nỗi nhớ về thời vàng son đã qua.
Các sáng tác của
Bà Huyện Thanh Quan có lời thanh nhã, ý cổ kính, thường mang nặng nỗi u hoài nhớ
tiếc quá khứ của vương triều Lê và Thăng Long.
Một số bài thơ
tiêu biểu của Bà Huyện Thanh Quan
Mặc dù không
sáng tác nhiều, những bài thơ của Bà Huyện Thanh Quan vẫn để lại dấu ấn sâu sắc
trong lòng người đọc. Hầu hết các tác phẩm của bà được viết bằng chữ Nôm, theo
thể thơ Đường luật, với những bài nổi bật như: Thăng Long thành hoài cổ,
Chùa Trấn Bắc, Qua Đèo Ngang, Chiều hôm nhớ nhà, Tức cảnh chiều thu, Cảnh
đền Trấn Võ, Cảnh Hương Sơn…