CHIẾU(1) DỜI ĐÔ(2)
Xưa nhà Thương đến vua Bàn Canh năm lần dời đô(3); nhà
Chu đến vua Thành Vương cũng ba lần dời đô(4). Phải đâu các vua thời
Tam đại(5) theo ý riêng mình mà tự tiện chuyển dời? Chỉ vì muốn đóng
đô ở nơi trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu; trên
vâng mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu thấy thuận tiện thì thay đổi. Cho nên vận
nước lâu dài, phong tục phồn thịnh(6). Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại
theo ý riêng mình, khinh thường mệnh trời, không noi theo dấu cũ của Thương,
Chu, cứ đóng yên đô thành ở nơi đây(7), khiến cho triều đại không được
lâu bền, số vận ngắn ngủi, trăm họ phải hao tổn, muôn vật không được thích
nghi. Trẫm rất đau xót về việc đó, không thể không dời đổi.
Huống gì thành Đại La, kinh đô(8) cũ của Cao Vương(9):
Ở vào nơi trung tâm trời đất; được cái thế rồng cuộn hổ ngồi(10). Đã đúng ngôi
nam bắc đông tây; lại tiện hướng nhìn sông dựa núi. Địa thế rộng mà bằng; đất
đai cao mà thoáng. Dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ ngập lụt; muôn vật cũng rất mực
phong phú tốt tươi. Xem khắp đất Việt ta, chỉ nơi này là thắng địa(11).
Thật là chốn tụ hội trọng yếu của bốn phương đất nước; cũng là nơi kinh đô bậc
nhất của đế vương muôn đời.
Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi của đất ấy để định chỗ ở. Các khanh
nghĩ thế nào?
(Lý Công Uẩn(*), Sách Ngữ văn 8,
tập 1, NXB Giáo dục Việt Nam, 2023, tr.78-79)
Chú thích:
(*) Lý Công Uẩn (974 –
1028): tức Lý Thái Tổ, vị vua đầu tiên của triều Lý. Việc dời đô cùng một loạt
chính sách đúng đắn của ông đã giúp đất nước ta bước sang trang sử mới, ổn định
và phát triển vượt bậc so với các triều đại trước.
(1) Chiếu: thể văn hành chính thời phong kiến, có tính chất mệnh
lệnh, gắn liền với những hoạt động của nhà nước.
(2) Chiếu dời đô: nguyên văn bằng chữ Hán (Thiên đô chiếu), được
Lý Công Uẩn viết khi quyết định dời đô từ Hoa Lư về Đại La (sau đổi tên là
Thăng Long) vào năm 1010.
(3) Nhà Thương (một triều đại xưa của Trung Hoa) từ đời vua đầu
tiên là Thành Thang đến đời vua thứ mười bảy là Bàn Canh dời đô năm lần.
(4) Nhà Chu (một
triều đại xưa của Trung Hoa, nối tiếp nhà Thương) từ đời vua đầu tiên là Chu
Văn Vương đến đời vua thứ ba là Chu Thành Vương dời đô ba lần.
(5) Tam đại: tên chung của ba triều đại Hạ, Thương, Chu trước khi
nhà Tần thống nhất Trung Hoa.
(6) Phồn thịnh: trạng thái phát triển tốt đẹp, dồi dào, sung túc.
(7) Nơi đây: chỉ kinh đô Hoa Lư (Ninh Bình) của nhà Đinh và Tiền Lê. Thực
tế, đất Hoa Lư nhỏ hẹp, có núi non ngăn trở, phù hợp làm nơi phòng thủ khi có
giặc (nhất là khi quốc gia mới hình thành, lực lượng còn hạn chế) mà không thuận
lợi cho sự phát triển kinh tế – xã hội. Đến thời nhà Lý, đất nước đã cường thịnh
hơn, thì không thể làm nơi đóng đô nữa.
(8) Kinh đô: nơi đóng đô của nhà vua, ở đây chỉ tòa thành to lớn xứng đáng
làm kinh đô (chứ thực sự không phải là kinh đô bởi Cao Biền vốn không làm vua).
(9) Cao Vương: Cao Biền, người đã làm cho mở rộng La Thành (từ đó thành
có tên là Đại La).
(10) Thế rồng cuộn hổ ngồi: thế đất đẹp, kì vĩ theo quan niệm của người
xưa, phù hợp với những công việc trọng yếu (ở đây là việc đóng đô của đất nước).
(11) Thắng địa: đất có địa thế và phong cảnh đẹp.
