CHUYỆN ĐỐI TỤNG Ở LONG CUNG
Huyện Vĩnh Lại ở
Hồng Châu (1) khi xưa có nhiều giống thủy tộc. Men sông người ta lập đền thờ đến
hơn mười chỗ. Năm tháng dần lâu, có chỗ linh thiêng thành yêu; song cầu tạnh đảo
mưa đều rất linh ứng, nên hương lửa bất tuyệt mà người ta càng phải kính sợ.
Về đời vua Minh
Tông nhà Trần, (2) có quan Thái thú họ Trịnh làm quan ở Hồng Châu, vợ là Dương
thị nhân khi về thăm nhà, đỗ thuyền ở bên cạnh một ngôi đền thờ thủy tộc. Bỗng
có hai người con gái, bưng một cái hộp nhỏ thếp vàng, đến trước mặt Dương thị
nói rằng:
- Đức ông tôi sai đem vật này kính biếu phu nhân gọi là để tỏ một chút tình; sớm muộn trong làng nước mây, duyên cưỡi rồng sẽ được thỏa nguyện.
Nói xong không
thấy đâu nữa. Dương thị mở hộp ra xem thì trong đó có cái dải đồng tâm mầu tía,
trên dải đề một bài thơ tứ tuyệt rằng:
Giai nhân tiếu sáp bích dao trâm,
Lão ngã tình hoài chúc vọng thâm.
Lưu đãi động phòng hoa chúc dạ,
Thủy tinh cung lý kết đồng tâm.
Dịch:
Người đẹp đầu cài trâm bích ngọc,
Cho ta thương nhớ ngẩn ngơ lòng.
Vật này dành để đêm hoa chúc,
Trong thủy tinh cung kết dải đồng.
Dương thị cả sợ,
cùng con hầu bỏ thuyền lên bộ; lại quay về nhiệm sở, kể chuyện với chồng. Trịnh
cũng kinh sợ nói:
- Giống thủy
quái ở dâm từ chực bắt mình đấy, phải nên tránh nó đi. Phàm những chỗ bờ sông bến
nước đừng bước chân đến. Gặp những đêm mưa gió hay đêm tối trời, phải thắp đèn
sáng và cắt người canh giữ.
Phòng ngừa như
thế được chừng nửa năm vẫn thấy vô sự. Đến đêm trung thu kia, nhân thấy bầu trời
quang mây, bốn bề trong vắt, sông Ngân vằng vặc, trăng sao sáng tỏ như ban
ngày, Trịnh mừng mà rằng:
- Trăng thanh
gió mát như đêm nay có thể không lo gì cả.
Vợ chồng bèn
cùng nhau uống rượu, uống say rồi ngủ lỳ. Chả ngờ đâu sấm chớp bỗng chốc nổi
lên, lúc Trịnh thức dậy thì cửa ngõ vẫn nguyên mà Dương thị không thấy đâu nữa.
Đến xem chỗ cái đền ngày trước thì mặt sông phẳng lặng, trăng chiếu lạnh lùng,
thấy có áo xiêm của Dương thị ở đó. Trịnh Thái thú tiếc ngọc thương hoa, nỗi buồn
thật không sao kể xiết, chỉ đứng giữa trời mà nghẹn ngào than thở, không biết
làm sao được.
Rồi Trịnh buồn nản
bỏ quan về, chôn một cái mả hờ dưới chân núi Đốn, hằng ngày rình trong cái lầu
nhỏ. Cái lầu trông xuống bến sông, mà chỗ bến ấy là một cái vực sâu thăm thẳm.
Trịnh mỗi khi lên lầu đứng trông, thường thấy có ông cụ già đeo một cái bao đỏ
đựng tiền, sớm đi rồi tối về. Trịnh nghĩ thầm: Quái! Đây là một bến sông sâu thẳm,
nào có thôn xóm gì đâu mà ông già kia lại đi lại như vậy. Bèn thử tìm đến chỗ ấy
thì quả thấy chỉ có bãi cát phẳng lặng không có nhà cửa gì, duy lèo tèo mấy
khóm lau sậy đứng rung rinh ở trên mặt nước. Trịnh lấy làm lạ, đi rộng ra các
ngả để tìm, thấy ông cụ già đã đương ngồi xem bói ở trong chợ Nam. Trịnh trông
cụ mặt mũi gầy guộc nhưng tinh thần trong sáng, đoán chắc là một kẻ ẩn sĩ lánh
đời, nếu không thì một vị chân nhân đắc đạo, lại không nữa thì hẳn là một tiên
khách trong áng yên hà, bèn cùng ông cụ làm thân, hằng ngày bày tiệc rượu, cùng
nhau chè chén rất vui vẻ. Ông cụ có vẻ cảm bụng tốt của Trịnh, nhưng hỏi họ tên
thì chỉ cười mà không chịu nói. Trịnh lấy làm nghi hoặc lắm. Hôm khác Trịnh trở
dậy rất sớm, nép mình ở bên khóm lau sậy để nhòm trộm xem ra thế nào. Bấy giờ
sương mai ướt át, khói sớm mịt mù, Trịnh thấy ông già từ dưới nước thủng thỉnh
đi lên, vội vàng chạy ra sụp lạy. Ông già cả cười nói:
- Thế ra ông định
dò tìm tung tích của tôi ư? Thôi nay đã biết nhau rồi, để tôi kể cho mà biết
rõ. Tôi là Bạch Long hầu, may bây giờ hãy còn năm đại hạn, mới có thì giờ rỗi
đi chơi lăng băng, chứ nếu Ngọc Hoàng có sắc chỉ truyền đi làm mưa thì chẳng
còn đâu thì giờ nhàn để đi làm nghề bói ở nhân gian nữa.
Trịnh nói:
- Ngày xưa Liễu
Nghị có cuộc xuống chơi dưới Động Đình (3). Thiện Văn có cuộc ăn yến ở Long
cung (4), chẳng hay kẻ phàm tục này, có thể được theo dấu của người xưa không?
Hầu nói:
- Khó gì sự đó.
Liền lấy đầu gậy
vạch xuống nước, nước rẽ đôi ra, Trịnh theo Long hầu xuống. Đi được chừng nửa dặm
thì thấy trời đất trong sáng, lâu đài chót vót, từ nhà ở đến thức ăn, đều là những
vật ở nhân gian không có. Hầu tiếp đãi rất chu đáo. Trịnh nói:
- Không ngờ một
kẻ nghèo khó lại được bước đến chỗ tôn nghiêm này. Ngày xưa có cái tai biến phi
th ngày nay có sự gặp gỡ phi thường, công việc báo phục, có lẽ chính ở dịp này
chăng?
Long hầu hỏi căn
do, Trịnh đem việc Dương thị ra kể, và nói mong nhờ cậy uy linh, trừ loài hung
xú, khiến buồm nhân gió mà được thuận, cáo nhờ hổ để dương oai, thì thật là
cũng bõ một phen gặp gỡ.
Long hầu nói:
- Họ dù càn rỡ,
đã có sắc mệnh của triều đình Long vương. Huống chi mỗi người riêng ở một nơi,
không thống thuộc gì với nhau, ai dám vượt qua sông nước, dấy động giáp binh, để
phạm vào một cái tội lỗi không thể tha thứ.
Trịnh nói:
- Vậy thì bây giờ
tôi phát đơn kiện ở triều đình Long vương được không?
Hầu nói:
- Âm dương khác
nẻo, chuyện chưa rõ ràng, ông muốn đem cái việc vô bằng, bắt kẻ địch rất mạnh,
sợ rằng mối thù ấy chưa thể trả được. Chi bằng trước hẵng cậy người dò xét, lấy
được chứng cớ, thì trừ kẻ gian kia chẳng khó khăn gì. Song tả hữu của tôi,
không có người nào đủ chắc cậy để sai đi được, vậy để ta hãy liệu xem đã.
Cạnh đấy có một
người con gái áo xanh bước ra nói rằng:
- Thiếp xin nhận
công việc ấy.
Trịnh bèn cung
kính mà nói lời ủy cậy và trao cho một cành thoa bằng ngọc mầu biếc để cầm đi
làm tin.
Nàng áo xanh đến
miếu thờ Thần Thuồng luồng ở Hồng Châu, hỏi thăm quả có người đàn bà họ Dương,
hiện được phong là Xương ấp phu nhân, ở trong một cái điện bằng ngọc lưu ly,
chung quanh có ao sen bao bọc, gối chăn yêu dấu, hơn hết các phòng, và năm
ngoái đã sinh được một con trai.
Nàng mừng lắm,
song lâu đài chi chít, không có đường thông, đành chỉ thẩn thơ ở ngoài cổng. Bấy
giờ màu xuân đương đẹp, hoa tường vi nở rất nhiều trông hình như muôn điểm ráng
hồng, kết lại ở trên tường rực rỡ. Nàng vờ như không biết, vừa bẻ vừa rung. Người
canh cổng nổi giận. Nàng liền đưa cành thoa đút lót mà nói:
- Tôi tưởng những
dây hoa leo này, không phải là của quý gìn giữ, lỡ tay vin hái, thật là có tội.
Tấm thân yếu ớt, sợ không chịu nổi roi vọt. Vậy xin bác cầm cành thoa này đưa
vào lầu ngọc, để mong được khoan tha không phải đánh đập, thì tôi thực đội ơn
vô cùng.
Người ấy nghe lời,
cầm cành thoa vào dâng Dương thị. Dương thị nhìn lúc lâu, giả cách nổi giận mà
rằng:
- Con bé nào mà
dám đường đột như vậy, làm hỏng cả một giàn hồng cẩm của ta.
Truyền đem trói
người con gái ấy trong vườn ngân hạnh. Thừa lúc vắng vẻ, Dương thị lẻn đến, cầm
cành thoa khóc mà nói rằng:
- Đây là vật cũ
của Trịnh lang chồng ta xưa làm sao lại ở tay chị? Hãy nói rõ sự thực đi!
Nàng áo xanh
nói:
- Bảo vật này
chính là do Trịnh lang đã giao cho tôi.
Lại nói:
- Trịnh lang hiện
đương ở nhà Bạch Long hầu, vì phu nhân mà quên ăn bỏ ngủ, rồi nhờ tiện thiếp xa
gửi đến một mối tình để trả món tương tư nợ cũ.
Nói chưa hết lời
thì có con tiểu hoàn vào báo là tuần Thuồng luồng có lệnh vời. Dương thị vội lật
đật đi ra: sáng hôm sau lại đến, ân cần hỏi han và trao cho một bức thư mà dặn
rằng:
- Chị về nói hộ
với Trịnh lang cho ta: người vợ xấu số ở bến nước xa xăm, lúc nào cũng vẫn
thương nhớ đến chàng; chàng nên cố xoay xở cách nào để cho được phượng lại
trong mây, ngựa về trên ải, đừng khiến tôi phải già đời ở chốn cung nước làng
mây này.
Bức thư gửi cho
Trịnh lang như sau:
"Non thề bể
hẹn, chao ôi việc trước lỡ làng, gió dập mưa dồn, ngán nỗi kiếp này lận đận. Nước
non muôn dặm, tâm sự mấy lời. Nghĩ như thiếp chút phận mỏng manh, tấm thân mềm
yếu. Duyên đôi lứa tự trời xe lại, ước trăm năm cùng huyệt dám sai. Nào ngờ biến
dậy một đêm, đến nỗi hình rơi đáy vực. Bởi không thể chìm châu đắm ngọc, nên
đành cam giãi nguyệt dầu hoa. áo xiêm đã lắm tanh nhơ, thân thế tạm thời còn
thoi thóp. Sầu đầy tựa bể, ngày dài như năm. Nào hay giữa lúc bơ vơ, bỗng nhận
được thư thăm hỏi. Ngắm cành thoa mà ứa lệ, nhìn khách đến những đau lòng. Một
bước lỗi lầm, riêng cỏ nội hoa hèn thắc mắc; ba sinh thề ước, có trời cao đất cả
chứng tri. Ngọc bích chưa lành, cân vàng xin chuộc".
Nàng áo xanh trở
về báo tin cho biết, Long hầu bảo Trịnh rằng:
- Việc có thể
nên được đấy.
Bèn cùng nhau đi
ra bể nam, đến thăm một tòa thành lớn. Hầu vào trước, bảo Trịnh đứng đợi chỉ ở
ngoài cửa thành. Một lát, Trịnh thấy một người ra dẫn vào trong một cái đền,
trên đền có một vị vua mặc áo tinh hồng, (5) mang đai ly châu, (6) quần thần đứng
chầu chực hai bên không biết bao nhiêu mà kể. Trịnh quỳ dài xuống mà tâu bày mọi
nỗi, lời rất thê thảm. Đức vua ngoảnh nhìn vào một viên đứng bên phía tả, giục
thảo trát đòi. Rồi có hai người lính vượt không ra đi. Chừng độ nửa ngày, hai
người lính áp giải đến một người đàn ông, thân thể vạm vỡ, mũ đỏ mặt đen, râu
ria đâm tua tủa như rễ tre vậy, ra giữa sân mà quỳ rạp xuống. Đức vua mắng rằng:
- Tước không cho
nhảm, phải đợi người công lao, hình không dùng xằng, để trị kẻ gian nhũng. Như
nhà ngươi trước có công lao, nên ta cho coi giữ một phương, vì dân che trở. Vậy
mà ngươi giở thói dâm ngược, như thế là trừ tai ngừa hoạn cho dân đấy ư?
Người ấy nói:
- Kẻ kia ở trên
trần, tiểu thần ở dưới nước, mỗi người một ngả, có can thiệp gì đến nhau. Vậy
mà hắn buông lời phao vu, để hãm hại người vô tội. Nếu bệ hạ tin nghe lời hắn
thì triều đình mắc sự lừa dối mà tiểu thần chịu tội mập mờ, tưởng không phải là
sự yên trên toàn dưới vậy.
Bên nói đi, bên
cãi lại, người ấy vẫn không chịu nhận tội, đức vua cũng hồ nghi không biết quyết
định thế nào. Long hầu đứng bên khẽ rỉ tai bảo Trịnh rằng:
- Chi bằng khai
tên tuổi Dương thị, xin cũng bắt đến xét hỏi.
Trịnh theo lời
tâu lên, đức vua quả truyền đi bắt Dương thị đến. Ngày đã xế chiều, lại thấy
hai người lính dẫn đến một mỹ nhân, xúng xính thướt tha, từ mé đông lại. Đức
vua hỏi:
- Chồng ngươi
đâu?
Dương thị tâu:
- Người áo xanh
kia là chồng thiếp, còn người áo đỏ là kẻ thù. Độ trước không may bị cái yêu ấy
bắt cướp, trải đã ba năm trời nay. Nếu không nhờ được sự soi tới của vầng thái
dương, thì hồn tàn vóc nát sẽ phải chịu nhơ nhuốc trọn đời, còn mong gì được ló
mặt ra nữa.
Đức vua cả giận
nói:
- Không ngờ thằng
giặc kia lại gian hoạt đến như thế. Bên trong thì làm sự dâm dật, mặt ngoài thì
già họng chối cãi. Việc ấy nỡ làm thì dù đem xử tử cũng không đáng tiếc.
Bấy giờ có một
người mặc áo bào xanh hiệu là Chính hình lục sự, tâu rằng:
"Thần nghe:
vì tình riêng mà ban thưởng, thưởng sẽ không công, đương lúc giận mà xử hình,
hình tất quá đáng. Duỗi co vốn khác, châm chước mới nên.
Đem cái tài vuốt
nanh, giữa cái trách phên giậu, tự hắn dẫu gây nên tội nghiệt, với dân cũng có
chút công ân. Có tội phải gia hình, tuy đã cam bề vạn tử; đem công mà trừ lỗi,
cũng còn mong được toàn sinh. Xin khoan cho tội tru di, hãy giam vào ngục đen tối".
Đức vua khen phải,
bèn phê phán rằng:
"Mảng nghe:
Đời người như khách trên đường, kẻ trước đi qua mà kẻ sau tiếp đến; đạo trời
không sai tơ tóc, làm lành được phúc mà làm á yên. Lệ luật không mờ, cổ kim vẫn
thế. Nay nhà ngươi vốn do huân phiệt, lạm giữ phương ngung. Lẽ nên linh hiển, để
tỏ đức rồng, sao được tà dâm, làm theo nết rắn. Sự càn rõ ngày càng quá tệ, luật
công minh tất phải thi hành. Than ôi, vợ người cố chiếm, đã rất mực mê cuồng,
phép nặng không dong, để răn phường gian ác. Dương thị kia, nết tuy đáng trỏ,
tình cũng khá thương; thân nên về với tiền phu, con để trả cho hậu phu. Mấy lời
phê phán, lập tức thi hành".
Nghe lời phán
xong, thần Thuồng luồng cúi đầu đi ra. Tả hữu cũng đưa mắt cho Trịnh bảo lui.
Long hầu về nhà bèn đặt tiệc mừng, và tặng cho các thứ văn tê, đồi mồi. Vợ trồng
Trịnh cùng lạy tạ rồi trở về nhà, kể hết đầu đuôi cho người nhà nghe, ai cũng đều
mừng thay và lấy làm một chuyện lạ.
Sau Trịnh có việc
đến Hồng Châu, lại đi qua chỗ đền ấy, thấy tường xiêu vách đổ, bia gẫy rêu
trùm, duy có cây gạo đương tung bay bông trắng ở dưới bóng dương tà xế. Hỏi
thăm những ông già bà cả, đều nói: "Trước đây một năm, một hôm giữa ban
ngày bỗng dưng không mây mà mưa, nước sông đầy dẫy, rồi có một con rắn dài mười
trượng, vẩy biếc mào đỏ, nổi trên mặt nước mà đi lên mạn Bắc, đằng sau có hàng
hơn trăm con rắn nhỏ đi theo, đền từ đấy không linh thiêng nữa". Bấm đốt
tính xem thì ngày ấy chính đúng vào ngày Trịnh kiện. Ôi lạ thay!
Lời bình:
Than ôi, chống
được ách lớn thì thờ, cản được nạn lớn thì thờ, đó là phép cúng tế. Hưởng sự
cúng tế ấy thì phải "cố danh tư nghĩa", (7) đâu có lẽ nhận sự thờ
cúng lại còn đi làm tai làm họa cho người. Thế thì cái tội của vị thần Thuồng
luồng chỉ phải bị đày thôi sao!
Quảng Lợi vương
dụng hình như thế, thật là chưa đáng. Tất phải làm như Hứa Tốn, Thứ Phi (8) mới
là cái việc thú vị được. Cho nên Địch Nhân Kiệt khi làm Tuần phủ Hà Nam (9) tâu
xin phá hủy đến một nghìn bảy trăm tòa đền thờ không xứng đáng, thật là phải lắm.
Chú thích:
(1) Hồng Châu: tương đương với
vùng đất thuộc tỉnh Hải Dương ngày nay.
(2) Minh Tông nhà Trần: Trần
Mạnh, vua nhà Trần từ 1314 đến 1329; niên hiệu Đại Khánh (1314-1323) và Khai
Thái (1324-1329).
(3) Liễu Nghị người đời vua
Trung Tông nhà Đường, đi thi bị trượt, về đến
đất Kinh Dương, thấy một người
đàn bà chăn dê đến nói rằng: "Thiếp là con gái vua Động Đình, gả cho con
thứ vua Kinh Xuyên, bị con hầu gái xúc xiểm, thành ra đắc tội với cha mẹ chồng,
nên phải truất đuổi đến đây. Nghe chàng về qua Động Đình, làm ơn đưa hộ thiếp bức
thư. Nhà thiếp ở cổng có cây quýt lớn, cứ gõ vào cây ba tiếng thì có người
ra". Nghị theo lời. Rồi nhân thế được đón xuống chơi Long cung. Sau Nghị lấy
người con gái họ Lư, nàng xưng mình chính là Long nữ nhờ Nghị đưa thư ngày trước,
rồi cùng đưa nhau về ở Động Đình.
(4) Khoảng niên hiệu Chí
Chính nhà Nguyên, có người học trò là Dư Thiện Văn, giữa ban ngày thấy hai người
lực sĩ đến nói là vâng mệnh của Quảng Lợi vương (vua thủy) sai đón, Thiện Văn
theo đi. Đến bến sông xuống một chiếc thuyền, thấy hai con rồng vàng cắp mà đem
đi, rồi xuống đến Thủy phủ. Quảng Lợi vương tiếp đón long trọng rồi nhờ soạn hộ
một bài văn để đọc lúc làm lễ cất câu đầu của tòa đền Linh Đức sắp dựng. Thiện
Văn liền làm hộ một bì rất hay. Khi khánh thành, Thiện Văn được dự một bữa yến
lớn.
(5) áo tinh hồng: áo màu đỏ;
tinh: con tinh tinh thuộc họ vượn. Tinh hồng: màu đỏ như huyết con tinh tinh.
(6) Đai ly châu: đai ngọc
quý. Ly châu: ngọc, ý từ sách Trang Tử: "Ngọc châu nghìn vàng tất ở dưới
hàm con ly long, dưới vực sâu chín trùng" (Thiên kim chi châu, tất tại cửu
trùng chi uyên, nhi ly long hàm hạ)
(7) Cố danh tư nghĩa: đoái
trông cái danh mà nghĩ đến cái nghĩa của nó, nghĩa là danh phải đúng với thực.
(8) Hứa Tốn là người đời Tấn,
trước làm quan lệnh ở Tinh Dương, sau từ quan về học được đạo thuật, chém rắn
và giết thuồng luồng để trừ hại cho dân. Thứ Phi là một kẻ dũng sĩ đất Kinh về
đời nhà Chu, giỏi kiếm thuật. Một lần đi thuyền có hai con thuồng luồng kèm hai
bên thuyền. Phi rút gươm nhảy xuống sông chém chết cả hai, cả thuyền được yên ổn.
Kinh vương nghe tiếng, vời dùng làm chức quan Chấp khuê.
(9) Địch Nhân Kiệt
(607-700): là một đại thần đời Đường, tính tình rất ngay thẳng. Thời Cao Tông,
ông làm chức Đại lý, xử 17.000 vụ án tồn đọng mà không ai phàn nàn điều gì. Khi
làm Tuần phủ sứ ở Giang Nam (trong truyện và nguyên chú là Hà Nam), ông đã sai
phá hủy 1.700 tòa dâm từ.
TẢI FILE SCAN PDF GỐC