Chào mừng quý thầy cô và các em học sinh đến với website "Học liệu số"!

Một số lệch lạc trong dạy học Ngữ văn hiện nay

Mở đầu

Trong bối cảnh đổi mới giáo dục phổ thông hiện nay, dạy học Ngữ văn đang được đặt vào vị trí trung tâm trong việc phát triển năng lực và phẩm chất người học. Tuy nhiên, trên thực tế, quá trình triển khai dạy học ở nhiều nơi lại bộc lộ không ít bất cập và lệch lạc. Những sai lệch này không chỉ ảnh hưởng đến chất lượng giảng dạy mà còn làm giảm sút vai trò, ý nghĩa vốn có của môn Ngữ văn trong việc hình thành nhân cách và nuôi dưỡng tâm hồn học sinh. Bài viết dưới đây chỉ ra một số lệch lạc đang tồn tại, từ đó gợi mở hướng điều chỉnh để việc dạy và học Ngữ văn trở nên thực chất hơn.

Quan niệm sai trong dạy học Ngữ văn

5 quan niệm lệch lạc trong dạy học Ngữ văn hiện nay

1. Quan niệm dạy học phát triển năng lực Ngữ văn chưa đúng.

Hiện nay nhiều GV quan niệm năng lực trong môn Ngữ văn là biết làm, biết vận dụng thực hành… là chính nên bỏ qua việc trang bị nhắc nhở HS trau dồi kiến thức. Đúng là năng lực đòi hỏi người ta biết làm, biết vận dụng, nhưng với môn Ngữ văn nói riêng cũng như các môn học nói chung, nếu không có kiến thức thì không thể làm có hiệu quả, không làm tốt được. Học sinh có năng lực Ngữ văn vừa phải có kiến thức, bao gồm kiến thức về tác giả, tác phẩm, về lí luận văn học và lịch sử văn học… vừa phải biết vận dụng những kiến thức ấy vào việc hiểu, cảm thụ, phân tích tác phẩm văn học và biết viết văn bản, biết làm ra bài văn của chính mình. HS không đọc tác phẩm, không thuộc, không nhớ nhiều thơ văn trong đầu thì lấy gì mà vận dụng thực hành? Lấy gì mà viết, mà liên hệ, so sánh, nhận xét, đánh giá các giá trị văn học của một tác phẩm? Việc chống học tủ, học vẹt là chống cách học máy móc, học thuộc để khi đi thi chép lại văn mẫu. Khác hẳn với việc muốn học tốt, học giỏi văn thực sự không thể không đọc, không nhớ những câu thơ, bài thơ, những áng văn hay. Không chỉ một vài bài, dăm ba câu mà là thuộc rất nhiều, nhớ càng nhiều càng tốt. Đó không chỉ là biểu hiện của tình yêu, sự say mê văn chương mà còn là biểu hiện của người có năng lực Ngữ văn. Đọc và thuộc thơ văn chính là chuẩn bị chất liệu để xây dựng, tạo ra sản phẩm; chuẩn bị bột, để “gột nên hồ”. Đương nhiên có vật liệu rồi phải biết cách (cách đọc, cách viết) cùng với sự rung động của tâm hồn mỗi người thì mới tạo ra sản phẩm tốt.

2. Bỏ qua các tác phẩm trong SGK, coi nhẹ dạy nói và nghe

Một số GV quan niệm do kiểm tra, đánh giá không lấy lại các văn bản – tác phẩm đã học nên thường coi nhẹ việc yêu cầu HS học nghiêm túc các văn bản trong SGK, thậm chí không dạy một số tác phẩm. Đây là một sai lầm. Vì trước hết các VB trong SGK là những VB tiêu biểu cho thành tựu văn học dân tộc và thế giới, rất hay và đúng thể loại, lại đã được các tác giả sách tuyển chọn. Nếu không lấy các VB trong SGK thì làm thế nào để dạy cho HS cách đọc hiểu? Hơn nữa các đề kiểm tra thường xuyên, thậm chí kiểm tra định kì vẫn có thể ra lại các tác phẩm đã học; điểm đánh giá quá trình vẫn có giá trị trong việc xét lên lớp và tốt nghiệp. Lấy tác phẩm ngoài sách vừa khó chọn được VB phù hợp, khó bảo đảm các tiêu chí, vừa khó xây dựng được một hệ thống câu hỏi đọc hiểu như SGK. Việc dựa vào các VB tự tìm để mong trúng đề thi sau này thì là một ảo tưởng, làm sao dạy hết tất cả các VB có thể ra đề được?

Do không thi nói và nghe ở các bài kiểm tra định kì và thi tốt nghiệp nên nhiều GV bỏ dạy giờ nói và nghe. Kĩ năng nói và nghe có liên quan nhiều đến đọc và viết. Trước hết vì nội dung nói nghe gắn với đọc và viết, nên góp phần củng cố cho đọc và viết. Hơn nữa, kĩ năng nói nghe, tranh luận, trao đổi, phản bác một cách tự tin… rất cần với mọi người trong cuộc sống hiện đại, mà đây lại là 1 kĩ năng rất yếu của HS Việt Nam. Vì thế cần phải dạy nói và nghe giúp HS phát triển tốt kĩ năng này.

3. Thiên lệch trong việc dạy đọc hiểu hình thức thể loại

Dạy đọc hiểu VB, viết bài phân tích và cảm thụ tác phẩm văn học đương nhiên cần chú ý đặc điểm thể loại. Nhưng nếu chỉ tập trung vào các yếu tố hình thức thuần túy của thể loại thì không ổn. Bản thân CT cũng nêu lên các yêu cầu cần đạt về nội dung, hình thức và liên hệ, so sánh, kết nối. Có nghĩa là dạy đọc hiểu cần thông qua hình thức thể loại, nhưng cái đích cuối cùng phải giúp HS hiểu ra nội dung sâu sắc, tư tưởng cao đẹp, nhân văn được hàm chứa trong mỗi VB. Dạy đọc hiểu không chỉ giúp HS nhận ra các yếu tố hình thức độc đáo mà còn hiểu được tác dụng của hình thức ấy trong việc biểu đạt nội dung tư tưởng của tác phẩm. Cuối cùng HS biết rung động và hiểu ra, vỡ ra được thông điệp và bài học nhân sinh, ý nghĩa nhân văn của tác phẩm, để biết ứng xử cho đẹp trong cuộc sống chứ không chỉ nhận biết ra được mấy yếu tố của hình thức thể loại.

4. “Khoán trắng” cho HS tự đọc và tự tiếp nhận

Một số GV lấy lí do dạy đọc hiểu là HS phải làm, phải thực hành, phải tự khám phá để “khoán trắng” cho HS tự đọc và tự tìm hiểu trong giờ dạy đọc hiểu VB. Đó cũng là biểu hiện không đúng. Trong dạy đọc hiểu, vai trò của GV vẫn hết sức quan trọng. Trước hết ở việc tìm hiểu thật kĩ VB sẽ hướng dẫn HS đọc. GV không hiểu VB thì làm sao hướng dẫn HS cách đọc hiểu VB ấy. Sau khi hiểu VB, GV cần có phương pháp sư phạm phù hợp để tổ chức giờ học theo hướng phát triển năng lực cho HS. Giờ đọc hiểu là sự cộng tác làm việc giữa thầy và trò, thầy đưa ra các chỉ dẫn sư phạm, các nhiệm vụ và trò thực hiện. Trong khi thực hiện bằng hiểu biết và sự từng trải của mình, thầy, cô cần nêu lên những gợi mở, tham gia bình luận, giảng giải đúng lúc, đúng chỗ để giúp HS vỡ ra, nâng cao hơn kết quả cảm thụ và hình thành cách thức đọc hiểu, phân tích, nhận xét và đánh giá VB một cách khoa học. Cũng có nghĩa là trong giờ đọc hiểu GV cần kết hợp với kĩ thuật “giảng văn” một cách hài hòa, hợp lí để giờ học vừa có chất văn, vừa đạt được mục tiêu phát triển phẩm chất và năng lực cho HS qua thực hành. Trong giờ đọc hiểu GV phải là cầu nối, là sợi dây liên kết các khám phá cụ thể, chi tiết của HS thành một khối, bảo đảm sự tiếp nhận tác phẩm như một chỉnh thể sinh động; không phải là sự “mổ xẻ” hình thức thể loại một cách cơ học, vụn vặt và rời rạc…

5. Dựa hết vào công cụ AI

Biết dựa vào công cụ AI là tốt và cần thiết. Nhưng ỷ lại, dựa hết vào công cụ ấy để tra cứu tư liệu, ra đề, giải đề, làm bài tập… thì lại không ổn. Sự trợ giúp của AI chỉ là hỗ trợ, rất nhiều tiện ích trong dạy học Ngữ văn; nhưng những kết quả AI nêu ra cần được chọn lọc qua một khối óc có hiểu biết chuyên môn và biết cách sàng lọc thông tin thì mới hữu ích và chuẩn xác. Với Ngữ văn, thông tin không chỉ đúng mà còn phải trúng, phải phù hợp, phải hay… những yêu cầu mà AI khó thay thế con người.

Kết luận

Ngữ văn là môn học đặc biệt, nơi không chỉ truyền đạt tri thức mà còn nuôi dưỡng tâm hồn và khơi gợi rung cảm thẩm mỹ. Muốn phát triển năng lực cho học sinh, trước hết cần nhìn nhận đúng bản chất của dạy học Ngữ văn. Những lệch lạc đang tồn tại cần được điều chỉnh kịp thời, để mỗi tiết học thực sự là một hành trình chạm đến cái đẹp, cái thiện, cái cao cả trong văn chương và trong chính cuộc đời.

(PGS.TS. Đỗ Ngọc Thống, theo Một số lệch lạc trong dạy học ngữ văn hiện nay, https://www.facebook.com/thongdongoc, ngày 04/07/2025)

Đăng nhận xét

Mới hơn Cũ hơn