CHUYỆN
GÃ TRÀ ĐỒNG GIÁNG SINH
(Trà
đồng giáng đản lục)
Dương Đức Công
tên là Tạc, người phủ Thường Tín xứ Sơn Nam(1). về triều vua
Huệ Tông nhà Lý(2), ông làm quan coi việc hình án trấn Tuyên
Quang(3) xét rõ mọi điều oan khuất, khiến các vụ án đều được
công bằng. Vì sự nhân từ phúc hậu, người thời bấy giờ gọi là Đức công. Năm 50
tuổi, Đức công vẫn không có con trai, chợt bị ốm nặng rồi chết, hồi lâu lại tỉnh
bảo với mọi người rằng:
- Ta vừa đến một
chỗ thành đèn vách sắt, toan bước chân vào thì có một viên chức ngăn lại. Viên ấy
dẫn ta đi sang phía hữu, thấy có những cửa đỏ biển son. Vén áo đi vào cửa này
thì thấy san sát những tòa rộng dẫy dài, có đến hơn trăm người thắt đai đứng hầu
sau trước. Giữa có hai vị mặc áo bào tía ngồi đối diện nhau ở bên một cái án,
đưa mắt cho viên chức kia bảo lấy sổ son của họ Dương ra xem, một lát hai vị
cùng nhìn nhau bảo rằng:
- Dương gian thật không có người nào được thế, cứu sống cho mọi người nhiều lắm. Chỉ tiếc hưởng tuổi không dài và dòng sau không người nối dõi. Người như thế mà không biểu dương thì làm sao khuyến khích cho kẻ khác được; ta sẽ phải tâu lên Thượng đế.
Bèn truyền cho Đức
công hẵng xuống tạm nghỉ ở cái hành lang phía đông. Chừng độ nửa ngày, hai vị ấy
lại sai dẫn Đức công vào, bảo rằng:
- Nhà ngươi ngày
thường vốn có tiếng là người lương thiện. Thượng đế khen ngợi, ban cho một người
con trai tốt và cho sống lâu thêm hai kỷ(4) nữa. Nên mau về
đi mà cố gắng làm thêm điều âm đức, đừng bảo là trên cõi minh minh không biết
gì đến.
Đoạn sai viên chức
kia dẫn về. Khi ra khỏi cửa, Dương hỏi rằng:
- Chẳng hay đây
là dinh tòa nào? Ai là chủ trương và coi giữ công việc gì?
Viên chức ấy nói:
- Đây là một tòa
trong 24 tòa ở Phong Đô(5); phàm người mới chết đều phải qua
cả. Người nào tên ghi ở sổ son, may ra còn có khi sống mà về được, chứ đã tên
ghi sổ mực thì chẳng còn có mong gì. Nếu ông không phải là người xưa nay hết
lòng làm việc thiện thì cũng khó bề thoát được.
Bèn cùng nhau
chia tay từ biệt, rồi ông bừng tỉnh như một giấc chiêm bao.
Bà vợ cũng nói
là đêm qua lúc cuối canh một, có ngôi sao nhỏ rơi vào lòng, lòng bỗng thấy rung
động. Rồi bà có mang đủ ngày tháng sinh ra được một cậu con trai, đặt tên cho
là Thiên Tích. Tích Thiên Tích thích uống trà lắm, thường tự ví mình như Lư Đồng
Lục Vũ(6) đời xưa. Song thiên tư cao mại, học vấn rộng rãi,
phàm sách vở văn chương cổ kim, không cái gì là không thiệp liệp. Đức công mừng
mà rằng:
- Thế là ta có
dòng giống rồi!
Bèn chuyên đem
những nghĩa lý chân chính dạy con. Sau đó 24 năm, ông vô bệnh mà mất, Thiên
Tích thương xót rất mực; xa gần ai nấy đều cảm động.
Khi đã hết tang,
Thiên Tích sớm hôm học hành, không hề trễ biếng. Nhưng gia cảnh nghèo nàn, ăn
tiêu không đủ. Thường tìm những nhà có con gái xin vào gửi rể, nhưng chẳng ai
nhận cả. Láng giềng hàng xóm, họ thấy nghèo thường đem lòng khinh. Chàng than rằng:
- Cha ta thuở
trước cứu sống được cho hàng nghìn người, mà rút lại không cứu sống được một đứa
con. Làm thiện như thế phỏng có ích gì?
Nói chưa dứt lời,
bỗng thấy một người áo mũ chững chạc, tự xưng là quan đại phu họ Thạch, đến vái
chào mà rằng:
- Ngày xưa tôi từng
chịu ơn dày của Dương công, không biết lấy gì đền báo. Có đứa con gái là Hán
Anh, vậy xin hiến cậu để hầu hạ chăn gối. Cậu nên tự bảo trọng lấy mình, đừng
vì cớ nghèo mà để tiêu mòn mất chí khí.
Nói xong chợt biến
đi đằng nào mất. Thiên tích rất lấy làm quái lạ, bèn ghi nhớ lấy những lời nói ấy.
Nhân nghe ở huyện Tiên Du(7) có Trần tiên sinh dạy học trò đến
mấy trăm người, bèn cắp sách đến theo học, ở ngụ tại một nhà trong xóm Thanh
Lân. Xóm ấy có một nhà giàu có họ Hoàng, thấy Sinh mặt mũi khôi ngô, văn chương
thông thái, có cái ý muốn kén vào ngôi đông sàng(8). Người chồng
bảo vợ rằng:
- Nhà ta mấy đời
lấy nghề buôn bán mà khởi gia, hiện tiền của chẳng thiếu gì, chỉ thiếu có người
rể tốt. Nay có Dương sinh ở trọ bên láng giềng, thật là một tay hào kiệt ở Nam
Châu; vả xem tướng mạo, sau này chắc có thể làm nên. Con bé nhà ta tuổi cũng lớn
lao rồi; mối duyên trao tơ, ngoài đám ấy thì còn đám nào hơn nữa!
Vợ cũng bằng
lòng. Họ Hoàng bèn đón Dương sinh đến làm rể, phàm những phí tổn về lễ lạt
khách khứa, hết thảy đều tự bỏ ra cả. Sinh rất mừng rỡ và sung sướng. Nhưng thường
trong những lúc vắng vẻ, Sinh hay ngồi ngẩn ra nghĩ ngẫm, gấp sách lại thở dài.
Vợ Sinh một khi bắt gặp, nhân hỏi han duyên cớ.
Sinh nói:
- Ngày xưa tôi
thấy có vị thần hiện lên, bảo tôi sẽ lấy người vợ họ Thạch tên là Hán Anh. Nay
tôi may mắn được vào làm rể chốn cao môn. Như thế là lời thần bảo về việc ấy
không đúng, vậy chắc việc thành đạt sau này cũng không đúng nốt, vì thế cho nên
tôi không khỏi bận lòng.
Vợ Sinh nghe nói
giàn giụa nước mắt mà rằng:
- Đó tất là cha
thiếp đấy. Thiếp thuở nhỏ tên là Hán Anh, cha thiếp họ Thạch tên là Mang, làm
quan Thú ở Tuyên Quang, bị quan trên vu hãm, cả nhà phải bắt rồi chết trong ngục.
Bấy giờ thiếp đương còn trẻ dại, nghe nói có ông Dương Đức công thương là vô tội,
hết sức chống cự với những viên quan khác, rồi tha cho thiếp được ra khỏi ngục
tù. Tấm thân hèn yếu may được sống còn, nghiêm đường ở đây thương hại, mới nuôi
làm con nuôi. Thiếp nương tổ tò vò đã mười năm nay, thực thì vốn là con của
quan đại phu họ Thạch.
Sinh kinh ngạc
nói:
- Thế thì tôi
chính là con của Đức công. Mới biết xưa nay vợ chồng, chẳng ai là không bởi túc
duyên; ai dám bảo là thắm chỉ hồng(9) là những câu chuyện hão.
Sinh thấy mối
nhân duyên lạ lùng, tình ái vợ chồng càng thêm thắm thiết. Vì trong đã có chỗ
nương thân, ngoài không phải lo hồ khẩu, nên Sinh được thảnh thơi để chí về đường
văn học, rồi đi thi hai khoa đều đỗ. Ban đầu Sinh lĩnh một giáo chức ở Kinh,
sau thăng lên Đề hình, trải hai mươi năm, làm nên đến một vị quan lớn. Ông là
người thờ vua thì trung, giữ mình thì liêm, trải thờ hai triều, chốn miếu đường
lấy làm ỷ trọng. Song vì lúc bé nghèo nàn, lắm người khinh mạn, rồi ân bằng cái
tơ, oán bằng cái tóc, ông đều nhất báo phục cả, đó là chỗ kém mà thôi. Một lần
ông lập một đàn tràng làm lễ kỳ yên, đón đến vài trăm vị đạo sĩ mũ cao áo rộng
cúng vái linh đình. Kế rồi có một vị đạo sĩ áo rách giày nát thất thểu đi đến.
Người coi cổng không cho vào, nhưng đạo sĩ cứ cố nài mãi. Người coi cổng vào bẩm
thì ông quát mắng sai đuổi ra. Đạo sĩ vừa đi vừa phàn nàn:
- Cố nhân tìm cố
nhân, không ngờ cố nhân lại bạc tình như vậy. Cái mạn Ô Tôn (10)
sau này, xin đừng phiền hận đến nhau thôi, và đừng trách cố nhân là phụ cố
nhân.
Ông nghe nói,
sai người đuổi theo mời lại, xuống thềm đón tiếp. Ngồi chơi xong, đạo nhân nói:
- Tướng công
ngày nay quan ngồi miếu điện, đất dựng lâu dài, đi có lính dẹp đường, ở có
chuông giữ gác(11), phú quý ở nhân gian đã đến cùng cực,
không còn nhớ gì đến thú vui ở chốn Tử Vi xưa ư?
Ông nói:
- Quan cao tể tướng,
từng trộm được ân sủng, còn thú vui ở Tử Vi thế nào tôi chưa được rõ?
Đạo nhân nói:
- Ông bị sông dục
vùi lấp đến nỗi mê man thế, vậy tôi xin kể ông nghe. Khi xưa ông vốn là một gã
Trà đồng của đức Thượng đế mà tôi thì là kẻ tửu lại ở chốn Tinh tào(12)
hằng ngày chầu chực ở cung Tử Vi, vẫn cùng nhau thân cận. Một hôm Thượng đế bãi
triều, bảo với quần tiên rằng: "Các người ai bằng lòng xuống chơi xem hạ
giới, lĩnh chức tể tướng hơn mười năm?” Quần tiên đều trông nhau chưa ai nói gì
thì ông vui vẻ vâng lời. Thượng đế phán: "ừ đi đi. Thú vui ở nhân gian chẳng
kém gì ở Thiên tào, đừng nên cho ần hoàn là chật hẹp". Bấy giờ tôi đứng chầu
một bên, cho nên được biết rõ lắm.
Nói rồi đạo nhân
đưa cho Dương Thiên Tích một hạt linh đan. Dương uống xong thì thấy tâm hồn tỉnh
sáng, dần dần nhớ ra hết những việc kiếp trước. Rồi ông nói:
- Lai lịch của
tôi, tôi đã được nghe qua. Còn ông sao ông lại ở dưới đời này?
Đạo nhân nói:
- Tính tôi tềnh
toàng, lại hay uống rượu, nên Thượng đế ngài quở phạt và đẩy xuống trần đã gần
được ba kỷ nay rồi. Nay kỷ đầy đã mãn, lại bổ vào chức cũ ở chốn Tinh tào; vì
cùng ông có tình cố cựu, nên đến qua thăm một chút.
Ông Dương lại hỏi
về câu chuyện Ô Tôn. Đạo nhân buồn rầu không vui, bảo đuổi tất cả mọi người ra
rồi nói:
- Sau năm năm nữa,
ông có việc đi bể, tôi e bấy giờ sẽ gặp một tai nạn rất lớn.
Ông Dương hỏi vì
tội lỗi gì mà gặp phải tai nạn. Đạo nhân nói:
- Ông làm tể tướng,
kể thì không có lầm lỗi gì. Chỉ có rằng tại chức lâu ngày, hay yêu người này
ghét kẻ khác. Nay thì sự thù oán đã sâu cay lắm, hồn oan đã đầy rẫy ở ngoài đường
rồi.
Ông nói:
- Vậy thì muốn
tránh vạ nên như thế nào?
Đạo nhân nói:
- Không ngại.
Tôi vốn tên là Quân Phòng. Nếu khi cần kíp, ông cứ đốt một nén hương rồi gọi
tên tôi, tôi sẽ đến cứu giúp.
Đêm hôm ấy hai
người cùng ngủ. Ông Dương nói:
- Ông đã là chỗ
tương tri, có điều gì hay để dạy bảo tôi
Đạo nhân nói:
- Này đức là nền
từ thiện, của là kho tranh giành. Tích đức như mầm non rỏ một giọt nước, sẽ nảy
nở lên, tích của như lửa đỏ gieo một khối băng, sẽ tàn lụi xuống. Huống chi
không vun mà lớn là mầm thiện ác, không giữ mà đầy là cơ phúc họa, cái tình
hình ỷ phục(13) trong đó thật đáng sợ. Ông nên trân trọng, cố
gắng mà làm những điều nhân.
Ông Dương nói:
- Tôi nghe đạo
trời công minh như cái cân cái gương, có thần minh để gây dấu vết, có tạo hóa để
giữ công bằng; gương tất soi suốt mà không riêng, lưới tuy thưa thớt mà không lọt.
Phép thật chí nghiêm mà chí mật, người nên không oán cũng không hờn. Cớ sao những
sự khuyến khích răn đe lại thấy lắm điều lộn xộn. Làm sự lợi vật, chưa nghe thấy
được phúc; làm sự hại nhân, chưa nghe thấy mắc nạn. Kẻ nghèo có chí cũng thành
không; người có muốn gì cũng được nấy. Có người chăm học mà suốt đời không đỗ;
có nhà xa hoa mà lũy thế vẫn giàu. Ai bảo rằng trao mận giả quỳnh, thế mà vẫn
trồng dưa được đậu. Đó là những sự mà tôi rất nghi ngờ không hiểu.
Đạo nhân nói:
- Không phải như
thế. Thiện ác tuy nhỏ cũng rõ rệt, báo ứng dù chậm nhưng lớn lao. Âm công có
khi rõ ràng ra, phải đợi quả thiện được tròn trặn, dương phúc khi tiêu tán mất,
phải chờ mầm ác đã cao dài. Có khi sắp duỗi mà tạm co, có khi muốn đè mà thử nống.
Có hạnh mà nghèo, hoặc bởi tội khiên kiếp trước, bất nhân mà khá, hẳn là phúc
thiện đời xưa. Tuy rằng khó biết sâu xa, nhưng thực không sai tơ tóc. Cho nên
không nên lập luận một bề và xem trời một mặt.
Đạo nhân nói như
vậy đến mấy nghìn lời, đều ngụ cái ý khuyên răn cả. Ông Dương rất vui vẻ nghe
theo.
Sáng hôm sau
trong lúc lâm biệt, ông đem mười đĩnh vàng tốt để tiễn chân. Đạo nhân cười mà rằng:
- Hà tất như thế
để làm gì! Tôi chỉ khuyên ông cố làm điều lành, để tôi khỏi trở lại gặp ông lần
nữa, đó tức là ông đã cho cố nhân nhiều l
Sau khi ông
Dương Thiên Tích chỉ vì tâu việc trái ý vua, bị vua đầy đuổi vào phương nam.
Khi đi qua cửa Hải Khẩu(14), đương giữa ban ngày sáng sủa bỗng
một đám mây đen kéo lên, gió nam nổi dậy ầm ầm, từng đợt sóng nổi lên như núi.
Chợt có hàng trăm giống ma quái ở đâu kéo đến cùng hò reo lên rằng:
- Kẻ thù của
chúng ta đã đến đây rồi! Hôm nay chúng ta được cam lòng với Tướng công đây!
Rồi kẻ vít cuối
thuyền, kẻ leo đầu thuyền, thuyền tròng trành mấy lần suýt ập xuống. Ông Dương
vội hỏi người lái thuyền đây là nơi nào thì ý nói là Ô Tôn. Ông mới sực nhớ đến
lời đạo nhân, bèn theo như cách đã dặn mà gọi tên ông ta. Thoắt chốc đã thấy một
cỗ xe bay đến, đứng dừng lại ở trên không, hai bên có ngọc nữ tiên đồng chầu hầu
rất nghiêm túc. Đạo nhân gọi với chúng quỷ mà bảo rằng:
- Lũ này đắm đuối,
nghiệp chướng nặng nề, thuở sống đã phạm vào điển chương, lúc chết còn gây thêm
tội nghiệt, oan oan nối tiếp, biết thuở nào thôi! Sao không rửa ruột đổi lòng,
quay về đường chính. Ta sẽ tâu lên Thượng đế, tẩy oan hồn đi cho.
Chúng quỷ nghe
nói đều sung sướng nhảy nhót rồi trong chốc lát tan giãn đi cả.
Ông Dương khẩn
khoản khuyên mời xe tiên giáng xuống để được hỏi han mọi việc sau, nhưng trong
thoắt chốc đã không thấy gì nữa.
Rồi đó gió êm
sóng lặng, thuyền đi được trót lọt đến bờ. Dương bèn từ giã vợ con rồi không biết
đi đằng nào mất. Sau đó có người gặp Dương ở núi Đông Thành, người ta ngờ là đã
đắc đạo thành tiên.
Lời bình:
Than ôi, làm thiện
là ở người, giáng phúc cho người thiện là ở trời, sự cảm ứng ở giữa khoảng trời
và người, thật là sâu mờ vậy thay!
Đức công là một
viên quan xử án, chỉ vì hay xét được nỗi oan uổng cho người, mà sự dương báo của
trời, đã bảo rõ cho ở trong cơn mê mệt. Huống chi người làm chức Tể tướng cầm
quyền thiên hạ, giúp đấng Thiên tử sửa trị âm dương, giữ lòng cho ngay để róng
rả mọi người, suy rộng ra mà làm những chính trị tốt, khiến trong khoảng trời đất,
không một vật gì là không đắc sở, thì trời ban phúc cho còn đến thế nào.
Đến việc như của
Thiên Tích, có lẽ chỉ là cái vết của hòn ngọc bạch khuê. Nhưng giá mài bỏ được
đi thì càng tốt lắm. Ta mong những người làm quan nên biết cố gắng và nên biết
soi gương.
Chú thích:
(1) Thường Tín: nay là huyện,
thuộc tỉnh Hà Tây.
(2) Huệ Tông (? - 1226): tức
Lý Hạo Sảm, vua thứ tám nhà Lý, ở ngôi: 1211-1224, niên hiệu Kiến Gia.
(3) Trấn Tuyên Quang gồm tỉnh
lỵ và một số huyện của tỉnh Hà Giang, Vĩnh Phúc, Yên Bái ngày nay.
(4) Kỷ: một kỷ là 12 năm.
(5) Phong Đô: một tòa coi việc
hình ngục ở địa phủ.
(6) Lư Đồng, Lục Vũ: hai người
nghiện trà của Trung Quốc thời xưa, đều từng viết về trà. Lư Đồng hiệu Ngọc
Xuyên Tử mỗi lần uống đều uống bảy chén, có bài ca nói về bảy chén trà; Lục Vũ
tự Hồng Tiệm, có tác phẩm Trà kinh gồm 3 thiên (theo nguyên chú).
(7) Huyện Tiên Du: xứ Kinh Bắc
nay thuộc tỉnh Bắc Ninh.
(8) Đông sàng: con rể. Vào đời
Tấn quan Ngự sử đại phu Hy Giám sai môn sinh đến nhà Vương Đạo kén chồng cho
con gái. Học trò Vương Đạo thấy sứ giả của quan Ngự sử đến đều có ý tự khoe,
riêng Vương Hi Chi cứ phanh bụng nằm ở giường phía đông như không biết có chuyện
gì. Hồ Giám khen là rể tốt, bèn gả con gái cho.
(9) Lá thắm chỉ hồng: nói
chuyện vợ chồng. Theo Thái bình quảng ký, cung nhân Hàn Thị đề thơ lên chiếc lá
đỏ thả trên dòng ngự câu. Vụ Hựu nhặt được đề thơ lên một chiếc lá khác thả xuống
dòng ngự. Chiếc lá này cũng đến tay Hàn Thị. Sau vua thả 3. 000 cung nữ, Vụ Hựu
lấy được Hàn Thị. Đêm tân hôn họ đưa lá ra xem và gọi lá đỏ là bà mối. Chỉ hồng:
Vi Cố người đời Đường, nhân qua chơi Tống Thành, gặp một ông lão đang ngồi dưới
trăng kiểm sổ sách. Cố hỏi trong túi có gì, ông nói: "Có một cuộn chỉ hồng
để buộc chân những người có duyên nợ vợ chồng với nhau. Chỉ đã buộc rồi thì dù
có xa xôi, thù ghét nhau vẫn không thay đổi được". Ông lại nói trước việc
hôn nhân của Cố, sau quả đúng.
(10) Ô Tôn: một cửa bể ở
vùng châu Bố Chính, khoảng Hà Tĩnh, Quảng Bình ngày nay.
(11) Chuông giữ gác: Dương Hỗ
đời Tấn làm Đô đốc Kinh Châu, trong gác đặt quả chuông rung để phòng ngừa sự cấp
bách.
(12) Tửu lại: viên chức
trông coi việc hầu rượu; Tinh tào: dinh tòa các vì sao.
(13) ỷ phục: lấy ý một câu
trong sách Lão Tử: "Họa hề phúc chi sở ỷ, phúc hề họa chi sở phục" (Họa
là chỗ dựa của phúc, phúc là nơi ẩn nấp của họa).
(14) Hải Khẩu: nguyên chú:
"Cửa bể ở xã Binh Lễ, huyện Kỳ Hoa", nay là Kỳ Anh, Hà Tĩnh.
TẢI VỀ "TRUYỀN KỲ MẠN LỤC" BẢN SCAN