Câu chuyện ở đền Hạng Vương
(Hạng
Vương từ ký)
Quan Thừa chỉ Hồ
Tôn Thốc là người hay thơ, lại giỏi lối mỉa mai giễu cợt, khoảng cuối đời Trần,
phụng mệnh sang Trung Quốc, nhân đi qua đền Hạng vương có đề thơ rằng:
Bách nhị sơn hà khởi chiến phong,
Huề tương tử đệ nhập Quan Trung.
Yên tiêu Hàm Cốc châu cung lãnh,
Tuyết tán Hồng Môn ngọc đẩu không.
Nhất bại hữu thiên vong Trạch Tả,
Trùng lai vô địa đáo Giang Đông.
Kinh doanh ngũ tải thành hà sự?
Tiêu đắc khu khu táng Lỗ công.
Dịch:
Nom nước trăm hai (1) nổi bụng hồng,
Đem đoàn tử đệ đến Quan Trung
Khói tan Hàm Cốc cung châu lạnh, (2)
Tuyết rã Hồng Môn đấu ngọc không (3)
Thua chạy giời xui đường Trạch Tả (4)
Quay về đất lấp nẻo Giang Đông (5)
Năm năm lăn lộn hoài công cốc
Còn được vùi trong mả Lỗ công (6).
Đề xong, ruổi ngựa
trở về nhà trọ. Rượu say nằm ngủ, ông Hồ chiêm bao thấy một người đến nói với
mình rằng:
- Tôi vâng chỉ của
đức vua tôi, mời ngài đến chơi nói chuyện.
Hồ vội vàng sửa
sang quần áo. Người ấy đưa ông đi về mé tả, đến một nơi cung điện nguy nga,
quan hầu đứng sắp hàng răm rắp, Hạng vương đã ngồi chờ sẵn, bên cạnh có cái giường
lưu ly, mời ông lên ngồi. Rồi Hạng vương hỏi rằng:
- Bài thơ ông đề lúc ban ngày, sao mà mỉa mai ta dữ thế! ừ thì hai câu: “Thua chạy giời xui đường Trạch Tả, Quay về đất lấp nẻo Giang Đông” kể cũng là đúng, nhưng đến hai câu “Năm năm lăn lộn hoài công cốc, Còn được vùi trong mả Lỗ công”, há chẳng phải là chê bai quá lời ư? Này như Hán làm nên vạn thặng ta cũng làm nên vạn thặng. Ta không diệt được Hán, Hán lại có thể phong tước cho ta được ư? Đến ngay Điền Hoành là một gã trẻ con, còn không tham tước của Hán, và hổ thẹn tự sát mà chết; huống ta đường đường một vị bá vương ở nước Sở, lại tự cam nhận lễ Lỗ công hay sao? Kẻ kia làm việc ấy, chỉ là đem quàng cho ta một cái tước vị hão, để đền bù lại sự hổ thẹn khi ở Hán Trung thôi đó. Ta lại xin nói để ông rõ: Ngày nhà Tần sổ mất con hươu, người ta nổi dậy nhao nhao, tranh nhau bắt lấy. Ta bấy giờ vì ghét người Tần mà nổi quân đánh Tần, tháo răng bừa làm giáo, thổi cơm chiêm làm lương, tôi đòi đều là quân, hào kiệt đều là tướng, phá xứ Ngô như hủy tổ kiến, lấy đất Hoài như đốt lông hồng, một trận đánh mà quân Chương Hàm phải tan, hai trận đánh mà miếu Tổ Long phải sụp. Đức nghĩa ban ra, nhiều nước được dựng lại, oai lệnh truyền đi, bao kẻ thuận làm tôi. Đứng đầu Chư hầu là quân nước Sở, làm chúa Tam Tần là tướng xứ Sở. Thiên hạ tước Sở có thể ngồi mà sai khiến được. Nhưng rồi Sở phải chết vì Hán, há chẳng phải là bởi trời ư? Vậy thì khi trời định giúp Hán, dù kẻ thổi kèn, dệt chiếu cũng đủ để thành công; khi trời định diệt Sở, dù người cất vạc, nhổ núi cũng không thể nói giỏi. Phương chi Chung Ly mạnh mẽ, chẳng kém Hoài Âm á Phụ khôn ngoan, thực hơn Nhụ Tử. Nếu ta nghe lời không cố chấp, nhân thua mà tính toán, thì ruổi Ô truy bốn vó mỏi chồn, há không đủ cày lật cung đình Phong Bái, thu Bành Thành những quân tản mác, há không đủ đào tung miếu xã Viêm Lưu. Nhưng chỉ vì thương lũ sinh linh, nên mới đem tấm thân tám thước đường đường, ném vào tay lũ Vương ế. Vậy sự hưng vong của Hán, Sở, chỉ là do ở sự may rủi của trời mà thôi, há nên lấy thành bại mà so bì ư? Nhưng đời những kẻ thích phẩm bình nhân vật, có kẻ bảo không phải giời làm mất, có kẻ bảo giời có dính dáng gì. Thi nhân mặc khách thường thường đem chuyện ta diễn vào trong thơ. Có câu thì:
Cái thế anh hùng sức nhổ núi,
Sở ca bốn mặt lệ tràn lan.
Có câu thì:
Vua chẳng ra vua, tôi chẳng tôi,
Bên sông lập miếu cũng hoài thôi.
Ngày chồng tháng
chất, có đến hàng nghìn bài chứ không phải ít. Nhưng chỉ có hai câu của Đỗ Mục:
Giang Đông tử đệ nhiều tay giỏi,
Cuốn đất quay về chửa biết đâu.
Lời thơ ủy khúc
trung hậu, hợp cách luật của nhà thơ, đọc lên ta còn vừa lòng đôi chút. Ngoài
ra thì hầu toàn những lời phụ bạc, ta vẫn lấy làm bất bình lắm, nay tiện dịp ta
nói để cho ông rõ.
Ông Hồ cười mà rằng:
- Lẽ trời việc
người, cũng là đầu cuối lẫn cho nhau. Bảo mệnh ở trời, (24) Thương Trụ vì thế
mà mất nước; bảo trời sinh đức, Tân Mãng vì thế mà bỏ mình. (25) Nay nhà vua bỏ
người mà đi bàn lẽ giời, vì thế đã đến táng bại vẫn không tỉnh ngộ. Tôi bữa nay
may mắn, được nhà vua vời đến tiếp kiến, muốn xin được nói thẳng không giấu giếm
gì, nhà vua nghĩ thế nào?
Hạng vương nói:
- Vâng vâng, ông
cứ nói.
Ông Hồ nói:
- Phàm xoay cái
thế thiên hạ, ở trí chứ không phải ở sức; thu tấm lòng thiên hạ, ở nhân chứ
không phải ở bạo. Nhà vua thì chỉ lấy quát thét làm oai, lấy cương cường làm đức.
Chém Tống Nghĩa là một tướng mạnh, vô quân đến đâu! Giết Tử Anh là người đã
hàng, bất võ quá lắm! Hàn Sinh vô tội mà bị luộc, hình pháp trái thường; A
Phòng vô cố mà bị thiêu, hung uy quá tệ. Cứ những việc của nhà vua làm thì được
lòng người chăng? hay mất lòng người chăng?
Hạng vương nói:
- Không phải như
thế. Này như cái việc Hàm Đan, lấy một nước Triệu mới dựng, chống với nước Tần
sói hùm, thành bại chỉ ở trong một hơi thở, còn mất chỉ ở trong chớp mắt. Vậy
mà Nghĩa lần khân sợ sệt, chờ khi giặc mỏi lười, dùng dằng trùng trình, cản đường
quân tiến tới. Nếu mà kế trong trướng không thi hành được, quân qua sông lại lữa
lần thêm, thì dân chúng ở trong thành Triệu, sẽ lại có cái thảm họa hơn là ở
Trường Bình (30) thủa trước. Vậy thì ta giết một Tống Nghĩa, mà cứu sống được
tính mệnh cho trăm vạn sinh linh, có gì là quá! Vua các nước đều là chư hầu, đều
có chúng dân, có xã tắc, tước thì của thiên vương phong cho, đất thì của thiên
vương ban cho. Vậy mà Tần lợi dụng đất cát, ngông cuồng giáp binh, mổ Hàn thịt
Triệu, hiếp Ngụy hại Yên, nam thì lừa Sở rồi bắt mà giữ lại, đông thì dối Tề để
hãm cho chết đói. Nếu không lật đổ ngôi Tần và tru diệt họ Tần thì cái hờn cắn
nuốt các nước, không biết ngày nào tiêu tan được. Cho nên ta giết một Tử Anh để
trả mối thù diệt vong cho sáu nước, có gì là tệ. Ôm bụng trung lương là tiết lớn
của kẻ làm tôi. Hàn Sinh thì không thế, khoe mẽ hợm mình, vong ân bội nghĩa,
múa lưỡi để chỉ nghị quân thần, khua môi để buông lời sàm báng. Vì vậy ta đem
làm thịt, để những kẻ bất trung biết mà răn sợ. Giữ thói tiết kiệm là đức tốt của
người làm vua, Thủy Hoàng thì không thế, xây cung ở bên sông, mở đường ở ven
núi, đắp nền cho cao bằng những hờn oán của dân, chứa kho cho đầy bằng những
máu mỡ của dân. Vì vậy ta đem đốt đi để những vua đời sau biết nên dè sẻn. Nếu
lại buộc tội về những điều ấy thì ta trộm lấy làm không phục.
Ông Hồ nói:
- Thế thì sáu
kinh trong lửa, đốt sách Thánh nhân, thước kiếm trên sông, giết vua Nghĩa đế,
những việc ấy chi mà nhẫn tâm như vậy! Sao bằng người Hán: sợ lỗi phận vua tôi
thì nghe lời Đổng công làm việc nhân nghĩa, khiến nền nếp đế vương hầu rối mà lại
sáng; sợ thất truyền đạo học thì về đất Khúc Phụ, bày lễ thái lao, khiến dòng
nguồn thi thư hầu đứt mà lại nối. Cho nên người ta có câu nói rằng: "Hán
được thiên hạ, không ở cất dùng Tiêu, Trương, mà ở việc để trở của ba quân, gợi
lòng trung phẫn các hào kiệt; Hán giữ thiên hạ không ở quy mô rộng lớn mà ở việc
thân đến tế ở Khúc Phụ, mở nền nương tựa cho đời sau". Nhà vua thì so ví
làm sao được với Hán vương.
Hạng vương nghẹn
lời không biết nói ra sao, sắc mặt tái như tro nguội. Bên cạnh có một vị lão thần
họ Phạm, tiến lên nói rằng:
- Tôi nghe, làm
người ta không ngoài trời đất để mà sống, làm chính trị không ngoài cương thường
để dựng nước. Bầy tôi của Đại vương đây có người tên là Cữu tiết cứng như tùng,
lòng bền tựa đá, sa cơ không chịu sống nhục, liều mình để được thác mà vinh; nếu
không phải nhà vua biết cách chống ngự thì sao có sự tử trung ấy! Truyện có nói
rằng: "Vua khiến bề tôi lấy lễ, bề tôi thờ vua lấy trung"; ở Đại
vương đây, chính là đã đúng hợp với câu ấy. Chứ như kẻ kia, sai Ung Sỉ giữ đất
Phong thì Ung Sỉ đầu hàng, sai Trần Hy coi nước Triệu thì Trần Hy làm phản; đạo
cương thường hỏi ai là hơn? Hậu cung của Đại vương có bà họ Ngu, mệnh nhẹ lá
thu, hồn theo bóng kiếm, gửi lòng thơm ở ngọn cỏ tịch mịch, chôn hờn oán ở cánh
đồng hoang vu, nếu không phải nhà vua biết lẽ cư xử thì sao có sự tận tiết ấy!
Kinh Thi có câu rằng: "Dạy vợ mình trước, sẽ trị nhà nước"; ở Đại
vương đây chính là đã xứng đáng với câu ấy. Chứ như kẻ kia, Lã Trĩ ngông ngạo
mà làm việc dâm tà, Thích Cơ được yêu, rồi đầy thân con lợn; lẽ cương thường hỏi
bên nào hơn? Huống chi như trái lẽ trời mà bảo sẻ chén canh, yêu con bé mà coi
thường gốc nước; luân thường cha con hỏi rằng để đâu? Những người nghị luận ở đời
sau, chẳng so nặng nhẹ, chẳng xét phải trái, lòng không suy nghĩ, miệng chỉ
quàng xiên, đối Hán thì khen ngợi chẳng tiếc lời, đối Sở thì chê bai không tiếc
sức, khiến Đại vương của chúng tôi trong cõi u minh cứ phải chịu những lời mỉa
mai cay độc. Vậy mong những điều nhơ tiếng xấu, phiền ông gột rửa giùm cho,
cũng là một việc thú trong cuộc gặp gỡ của chúng ta.
Ông Hồ thấy lời
nói cũng hơi có lý, gật đầu hai ba lần, rồi ngoảnh bảo những người theo:
- Các ngươi ghi
nhớ lấy.
Rồi đó canh tàn
trà cạn, ông đứng dậy từ giã xin về; Hạng vương đưa chân ra đến cửa thì phương
đông đã dần sáng rạng. Ông xốc áo vùng dậy, té ra là một giấc chiêm bao, bèn
mua rượu và nem bày một lễ cúng ở đầu thuyền trước khi rời khỏi đấy.
Lời bình
(Trong hai mươi truyện của
sách này, hầu hết ở cuối có một đoạn lời bình, không biết của chính tác giả hay
của ai, vì không thấy ghi rõ)
Than ôi, so Sở với
Hán thì Hán hơn, sánh Hán với bậc vương đạo, Hán còn xa lắm. Sao vậy? Hồng Môn
nổi giận, Thái công tha về, những việc ấy, Sở không phải là bất nhân; nhưng
nhân nông mà ác sâu. Làm cỏ Dĩnh Xuyên, (41) giết hại công thần, những việc ấy,
Hán không phải là không có lỗi, nhưng lỗi ít, tốt nhiều. Sở đã đành trái với
nhân nghĩa, nhưng Hán cũng chỉ là giống với nhân nghĩa. Họ Hạng nước Sở không
được là hạng bá giả mà vua Cao nhà Hán cũng là tẹp nhẹp. Kẻ trị thiên hạ nên tiến
lên đến đạo thuần vương, còn Hán Sở nhân với bất nhân, hãy gác ra không cần bàn
đến.
Nguồn: Nguyễn Dữ, trích Truyền kỳ mạn lục, NXB Tân Việt, 1952, tr. 15-23)
Lưu ý: Đây là bản Scan của Thư viện Quốc gia Việt Nam
Chú thích
(1) Hồ Tôn Thốc: người huyện
Thổ Thành, nay là xã Thọ Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An; trú quán tại xã
Vô Ngại, huyện Đường Hào nay thuộc tỉnh Hải Dương. Đời Trần Nghệ Tông
(1370-1372) đi sứ nhà Nguyên, làm quan đến chức Hàn lâm học sĩ Thẩm hình viện sự,
có tác phẩm Việt sử cương mục và Việt Nam thế chí, Thảo nhàn hiệu tần thi tập,
nhưng hiện chỉ còn một bài thơ.
(2) Non nước trăm hai: nhà Tần
đóng đô ở Quan Trung, địa thế hiểm yếu, hai người ở trong có thể chống với 100
người ở ngoài.
(3) Nói việc Hạng Vũ đốt
cung A Phòng của nhà Tần. Hàm Cốc: cửa quan hiểm yếu của nhà Tầ
(4) Tiệc ở Hồng Môn, Phạm
Tăng định giết Bái Công nhưng Hạng Vũ không nghe. Bái Công thoát về được, Tăng
tức giận ném vỡ tan cái đấu ngọc Trương Lương (Hán) biếu. ý câu thơ: đấu ngọc vỡ
vụn như tuyết, không còn gì nữa.
(5) Hạng Vũ bị vây ở Cái Hạ,
đêm phá vòng vây chạy được đến Âm Lăng, hỏi đường, bị một ông lão nông ghét Sở
lừa chỉ đi về phía tả; Vũ nghe theo bị mắc cái đầm lớn không còn đường chạy nữa.
Vũ than là "Trời định làm mất ta".
(6) Hạng Vũ chạy đến Ô Giang
người lái đò khuyên qua sông sang Giang Đông rồi sẽ tính kế quay về, nhưng Vũ
không nghe, tự tử.
(7) Lỗ Công: tước Hạng Vũ được
Hoài vương phong từ trước. Khi Vũ thua chết, Hán Cao Tổ lấy lễ công mà chôn cất.
(8) Vạn Thặng: ngôi thiên từ
có muôn cỗ xe.
(9) Điền Hoành: họ Điền vốn
là họ của Tề Vương, người nước Tần. Khi nước Tề bị diệt, Hoành tự lập làm Tề vương.
Khi Hán diệt Hạng Vũ, Hoành đem thuộc hạ chạy ra hải đảo. Hán Cao Tổ sai sứ ra
mời hứa phong tước vương, chí ít cũng là tước hầu; còn nếu không theo sẽ đánh.
Hoành định theo, nhưng khi gần về đến Lạc Dương lại đổi ý, tự sát. Thuộc hạ đều
chết theo.
(10) Hạng Vũ từng phong cho
Bái công tước vương ở Ba Thục và Hán Trung.
(11) Con hươu: ví với thiên
hạ. Nhà Tần sổ mất con hươu: nhà Tần bị mất thiên hạ.
(12) Chương Hàm: tướng nhà Tần.
Hạng Vũ và Hạng Lương đánh quân Chương Hàm ở Đông A hạ, đuổi đến Bộc Dương thì
hoàn toàn phá tan.
(13) Tổ Long: miếu thờ Tần
Thủy Hoàng. Sứ giả Tần đêm đi qua Hoa Âm, có người ngăn lại bảo "Năm nay Tổ
Long chết". Tổ Long chỉ Tần Thủy Hoàng, vì Long (rồng) là hình tượng của
vua (Hoàng); Tổ là người mở đầu, ứng với chữ Thủy.
(14) Kẻ thổi kèn dệt chiếu:
chỉ Giáng hầu Chu Bộ vốn người đất Quyển, sau dời sang đất Bái, thuở hàn vi thường
phải dệt rèm trúc, thổi kèn đám ma kiếm sống.
(15) Người cất vạc nhổ núi:
chỉ Hạng Vũ. Hạng Lương khiến Hạng Vũ chiêu tập bọn Vu Anh ở Đồ Sơn. Anh nói:
"Trong miếu Vũ vương có 3 chiếc vạc đá, nếu xô đổ rồi nhấc bổng lên được
thì ta sẽ hàng.” Vũ bèn xô đổ rồi lại dựng lên, sau đó cho một tay vào trong vạc
nhấc lên đi vòng trước cửa miếu ba lần, bọn Vu Anh đều bái phục. Chữ nhổ núi (bạt
sơn), xuất phát từ bài ca tuyệt mệnh của Hạng Vũ: Lực bạt sơn hề khí cái thế (sức
có thể nhổ núi, khí trùm trời đất).
(16) Hoài Âm tức Hoài Âm hầu,
tước phong của Hàn Tín, tướng giỏi của Lưu Bang. Chung Ly: có lẽ là tướng của Hạng
Vũ, chưa rõ điển tích.
(17) á Phụ: tức Phạm Tăng,
mưu sĩ giỏi của Hạng Vũ.
(18) Nhụ Tử: có lẽ chỉ Trần
Bình, người phụ tá có nhiều mưu lược của Hán Cao Tổ.
(19) Phong Bái, Bành Thành:
Phong Bái: chỉ quê hương Hán Cao Tổ, vì ông người ấp Phong, huyện Bái; Bành
Thành: đất của Tần. Hạng Vũ diệt Tần, đóng đô ở đấy.
(20) Vương ế: Hạng Vũ bị
thua ở Ô Giang, Vũ ngoái nhìn người kỵ binh Hán là Lã Mã Đồng hỏi: "Anh có
phải là bạn cũ của ta không?”
Mã Đồng nhận diện rồi chỉ
cho Vương ế: "Đây là Hạng vương". Vũ lại hỏi: "Ta nghe nói Hán
vương treo giá đầu ta ngàn vàng và tước vạn hộ. Ta cho ngươi đấy!” Nói rồi tự vẫn.
Vương ế liền cắt đầu Hạng Vũ nộp cho vua.
(21) Sở ca bốn mặt lệ tràn
lan: Hạng Vũ đến Cai Hạ, binh thiếu, lương hết, không đánh thắng được quân Hán
lại bị vây bốn mặt. Trương Lương dạy quân Hán hát tiếng nước Sở đêm đến cất tiếng
ca. Hạng Vũ nghe thấy bốn bề đều hát những bài ca nước Sở, thất kinh nói:
"Hán đã lấy được Sở rồi sao? Sao người Sở đông như vậy?” Rồi đang đêm dậy
uống rượu trong trướng, khóc ròng, thuộc hạ đều khóc, không ai ngẩng lên được,
quân tướng đều tan rã.
(22) Hai câu này trích trong
bài thơ của Vương An Thạch, Tể tướng thời Tống Thần Tông.
(23) Đỗ Mục (803-853), một
nhà thơ có tên tuổi thời Văn Đường; hai câu này trích trong bài Đề Ô Giang
đình.
(24) Mệnh ở trời: vua Trụ
nhà Thương bạo ngược, trung thần khuyên can thì nói "đã có mệnh trời".
(25) Tân Mãng: Vương Mãng cướp
ngôi nhà Hán, đổi quốc hiệu là Tân nên gọi là Tân Mãng. Hán Quang Vũ khởi binh
đánh, Mãng nói: "Trời đã sinh đức ở ta, quân Hán làm gì được ta?”
(26) Chém Tống Nghĩa…: Sở
Hoài Vương phong Tống nghĩa làm Thượng tướng, hiệu Khanh tử Quán quân, sai đem
quân đánh Tần cứu Triệu. Tống Nghĩa trùng trình không tiến quân, Hạng Vũ liền
vào trướng chém chết.
(27) Hạng Vũ đem quân đánh
Hàm Dương, Tần vương là Tử Anh đã hàng, vẫn bị giết.
(28) Hàn Sinh bị luộc: Hàn
Sinh khuyên Hạng Vũ nên đóng đô ở Quan Trung vì thế đất hiểm trở, phì nhiêu, có
thể là nơi dựng nghiệp bá được. Vũ thấy cung thất nhà Tần đã bị đốt sạch, có ý
muốn trở về Đông liền bảo: "Phú quý mà không trở về cố hương thì như mặc
áo gấm đi đêm còn ai biết đến nữa". Hàn Sinh tức lui về nói: "Thế
gian nói "người Sở là con khỉ đội mũ" quả như vậy". Chuyện đến
tai Vũ, biết Hàn Sinh nói mình, Vũ giận sai giết chết bỏ luộc.
(29) A Phòng... bị thiêu: A
Phòng là một dãy cung điện rất lớn liên tiếp nhau đến 300 dặm, cứ 5 bộ có một lầu,
10 bộ có một gác, lại dẫn nước hai con sông lớn vào đến chân tường bao cung điện.
Sau bị Hạng Vũ đốt, hiện còn di chỉ ở huyện Tân An, tỉnh Thiểm Tây.
(30) Cái họa Trường Bình:
Liêm Pha đóng quân ở Trường Bình, cố thủ không ra đánh. Triệu vương cho Triệu
Quát đến thay. Quát đổi luật lệnh, dùng người dễ dãi, mở cửa thành đánh Tần,
trúng kế kỳ binh của Vũ Anh Quân bị đại bại. Hơn 40 vạn quân Triệu đều hàng Tần,
bị Vũ Anh Quân lừa giết chết hết.
(31) Hạng Vũ giết vua Nghĩa
đế nước Sở, Hán vương theo mưu kế của Đổng công cho ba quân để tang, gợi lòng
trung nghĩa của họ và kích động hào kiệt trong thiên hạ.
(32) Khúc Phụ: quê hương Khổng
Tử.
(33) Cữu: Tào Cữu, Đại Tư mã
nước Sở. Hạng vương sai Cữu giữ thành Cao, dặn cố thủ không được đánh. Quân Hán
khiêu chiến mấy lần không được liền dùng kế nhục mạ Cữu suốt mấy ngày. Cữu nổi
giận đem quân vượt sông Tỵ thủy mà đánh. Quân lính mới sang được nửa sông thì bị
đánh bại, vật báu của nước Sở đều bị lấy hết; Cữu và Tư Mã Hân đều tự tử chết.
(34) Truyện: chỉ sách Luận
ngữ. Câu này trích trong thiên Tử Hãn.
(35) Ung Sỉ: trước theo Hán
Cao Tổ được sai giữ đất Phong. Khi Phong bị Ngụy chiếm, Sỉ hàng Ngụy, Hán Cao Tổ
không có đường về phải dời sang đất Bái.
(36) Trần Hy: Hán Cao Tổ
phong Trần Hy làm Tướng quốc coi quân biên. Sau Trần Hy cùng Vương Hoàng làm phản,
tự lập làm vương, cướp phá Triệu, Đại.
(37) Hạng Vũ cùng đường ở
Cai Hạ, vợ là Ngu Cơ tự tử để chồng khỏi vướng víu bịn rịn. Tục truyền trên mộ nàng
mọc lên một thứ cỏ thơm gọi là cỏ "Ngu mỹ nhân".
(38) Lã Trĩ là hoàng hậu của
Hán Cao Tổ (cũng gọi là Lã Hậu), khi còn ở trong quân Hạng vương làm con tin
cùng Thẩm Tự Kỳ vốn đã thích nhau, sau Lã Hậu ở góa, nhớ tình xưa nghĩa cũ liền
tư thông. Sợ người trong cung biết, Lã Hậu bèn giấu Thẩm sau giá treo áo.
(39) Thích Cơ là vợ lẽ yêu của
Hán Cao Tổ. Sau khi vua chết nàng bị Lã Hậu chặt cụt chân tay, khoét mắt chọc
tai vứt vào chuồng lợn gọi là lợn người.
(40) Hạng vương bắt cha Lưu
Bang là Thái công dọa làm thịt. Lưu bang nói: "Cha ta cũng là cha mày, có
làm thịt xin cho bát nước canh".
Triệu Vương Như ý là hoàng tử
do người thiếp yêu Thích Cơ sinh, vì vậy Hán Cao Tổ đã định phế truất ngôi Thái
tử của con cả để lập Triệu Vương.
(41) Làm cỏ Dĩnh Xuyên: Chỉ
việc Hán Cao Tổ tru di ba họ Bành Việt và nhiều bề tôi khác. Bành Việt là người
có công giúp Hán diệt Sở, thống nhất thiên hạ.