Chào mừng quý thầy cô và các em học sinh đến với website "Học liệu số"!

Đề thi học sinh giỏi cấp thành phố môn Ngữ văn 9 Đà Nẵng năm 2025

ĐỀ THI HỌC SINH GIỎI MÔN NGỮ VĂN 9 ĐÀ NẴNG NĂM 2025

Thời gian làm bài: 150 phút (không tính thời gian giao đề)

Đề thi HSG Ngữ văn 9 Đà Nẵng 2025

Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:

NHỮNG CÁNH DIỀU TRONG TÔI

Giờ đêm đêm, nếu bạn đi qua sân vận động Mỹ Đình, sẽ thấy rợp một trời diều. Những cánh diều bằng giấy bóng, bằng nilon, sặc sỡ lắm. Chỉ lạ một điều là người chơi diều hầu hết đã qua tuổi thiếu niên. Có người tuổi đã lớn, đứng hẳn lên yên xe máy, nới dây diều say sưa trong ánh sáng nhập nhoạng.

[…] Dẫu đêm tối nhập nhoạng, nhưng cái cảm giác được vươn đến bầu trời thoáng đãng, bao la, với khát vọng tự do bay lên, thì vẫn vậy. Nhiều người lớn rồi, nhưng vẫn có nhiều đêm say thả diều rồi ngủ quên ngoài bãi cỏ.

Vẫn luôn là vậy, từ cánh diều dán bằng giấy báo cũ thuở trước đến những cánh diều nhiều sắc màu cá tính bây giờ. Năng lượng và cảm hứng sống, cống hiến trong mỗi người tuổi trẻ khiến họ luôn muốn vượt lên, vươn tới khoảng không gian khoáng đạt tự do. Gửi gắm bao điều trong mỗi ngày sống làm lụng gian khó. Gửi gắm cả trong những trò chơi con trẻ. Gửi cả trong những ngày sáng ánh dương hay trong đêm tối vắng sao trời.

(Hà Nhân, Bay xuyên những tầng mây, NXB Văn học, 2016, tr. 37-38)

Câu 1. (4,0 điểm)

Từ đoạn trích trên, em hãy viết bài văn nghị luận về cách sống luôn nuôi dưỡng khát vọng tự do bay lên như những cánh diều.

Câu 2. (6,0 điểm)

Phải chăng, văn chương cũng tựa như những cánh diều được nới dây từ chính hiện thực cuộc đời còn lắm nhập nhoạng, gian khó? Em hãy phân tích truyện ngắn Hoa đào nở trên vai để cảm nhận những điều tác giả Vũ Thị Huyền Trang(1) gửi gắm trong cánh diều văn chương ấy.

Hoa đào nở trên vai

Ông Vại dừng tay, đứng lùi ra sân, ngắm nghía lại bức tường mình vừa tự tay quét lên một lớp sơn xanh. Cô con dâu bê bó củi đi qua cười bảo:

- Ghê thật. Tay nghề bố như thợ sơn chuyên nghiệp.

- Chuyện! Dù gì xây bao nhiêu cái nhà cũng chẳng mất một đồng thuê thợ, chứ đùa à.

- Thế mà anh Vượng chẳng biết làm cái gì.

- Ờ, nhiều khi bố nghĩ chắc nó là con ai không phải con mình.

Ông cười khà khà, đưa mắt ngó thằng Lụm đang ngồi ở góc sân mân mê món đồ chơi còn bám đầy bùn đất. Kể từ mùa lụt đến giờ thằng nhỏ vẫn buồn bã, lầm lì như thế. Tội nghiệp! Có đứa trẻ nào mất ba mất mẹ mà vui. Dẫu cho cả thế giới có yêu thương ôm ấp nó vào lòng cũng không thể bằng tình thân máu mủ.

Vậy là Lụm trở thành con cháu nhà này cũng đã được hơn ba tháng. Ông vẫn nhớ như in buổi sáng hôm ấy. Lúc trở về từ nơi tránh lũ, ông thất thần nhìn nhà cửa tan hoang. Lúc đang bới trong đống đổ nát tìm nồi niêu xoong chảo, ông giật mình nhìn thấy trên bụi tre bị bão quật nằm rạp xuống, bám đầy bùn đất sau cơn lũ, có hình hài một con người. Nói đúng hơn đó là một đứa trẻ, quần áo nhuốm màu bùn, tay còn ôm cố lấy thân cây.

[…]

Sau lũ, nguồn nước cũng ô nhiễm nặng. Những gáo nước đục ngầu mãi không thể gột rửa được cơ thể đứa bé tội nghiệp. Ngay cả sau này cũng vậy, dù ông Vại và vợ chồng đứa con trai có từng ôm thằng nhỏ chặt thế nào, có yêu thương ra sao, cũng không thể nào xoá đi kí ức đau buồn trong nó. Ông từng dắt thằng nhỏ ngược dòng cơn lũ tìm về nhà. Nhưng về đến nơi chỉ thấy cảnh tượng tan hoang. Người ta nói người thân thằng nhỏ đã trôi theo cơn lũ, không về. Kể từ đó thằng nhỏ trở thành con cháu trong nhà.

Người làng nói chắc ông trời thương vợ chồng chị Thảo lấy nhau chục năm vẫn chưa có con nên cơn lũ đã đưa thằng nhỏ dừng lại nơi này. Từ khi có nó nhà cửa tự nhiên cứ ấm dần lên. Dù sau lũ, dựng tạm cái lều, ba con người co cụm lại bên mâm cơm đạm bạc và giấc ngủ tứ bề gió thổi.

[…]

Thỉnh thoảng mấy đứa nhỏ hàng xóm chạy sang kéo thằng Lụm chạy mất tiêu sau rặng cúc tần. Trời tối nhá nhem thằng Lụm trở về với bộ dạng lấm lem, miệng cười hở hàm răng sún chưa thay hết. Thảo vờ mắng mỏ nó vài câu chứ bụng dạ thì mừng vui quá chừng. Ít ra cũng thấy Lụm đã cười trở lại. Nửa đêm cũng ít dần những cơn ác mộng khiến thằng nhỏ bật dậy mếu máo gọi “mẹ ơi”. Nó cũng thôi bám chặt vào cột nhà mỗi khi thấy ngoài trời nổi gió.

Phải cố gắng hoàn thiện nhà sớm để còn lo cái Tết. Năm nay lợn không có, ít gà vịt cũng trôi theo cơn lũ mất rồi. Con xem trong làng nhà ai mổ lợn thì xin ăn đụng(2).

[…]

Nhà mình Tết cũng chẳng cần mua sắm gì nhiều. Có tiền thì ăn đụng cả đùi lợn mà ít tiền thì nửa đùi. Nhưng nhớ phải mua cho thằng Lụm vài bộ quần áo mới.

Thằng Lụm lúc ấy đang đánh đu trên cây trứng gà sau nhà rình xem con gà mái mơ đẻ hoang ngoài bụi. Nó đã đẻ được mười quả trứng cả thảy, Lụm nhất định không nói với ai để một ngày nào đó con gà mái mơ sẽ bất ngờ dẫn một đàn con về trình diện. Lúc ấy hẳn mọi người sẽ vui lắm đấy. Đang ngồi im thin thít, sợ con gà mái biết sẽ bỏ ổ đẻ, nào ngờ cô Phụng đi qua véo tai thằng nhỏ kêu oai oái.

- Rình mò cái gì vậy Lụm? Mẹ đâu con?

Thằng nhỏ sững người, ngơ ngác nhìn xung quanh. Nó vẫn chưa thôi thảng thốt mỗi khi nghe ai đó nhắc về mẹ của mình. Người mẹ đã trôi theo cơn lũ không để lại một dấu vết gì. Lụm cũng không quen gọi một người phụ nữ khác là mẹ. Dẫu cô Thảo cũng hiền hậu và dịu dàng giống y mẹ vậy. Cô Thảo nấu những món mà Lụm thích. Lúc lôi Lụm đi tắm rửa cũng hay kì cọ chiếc bớt đỏ ở bả vai, lần nào cũng thốt lên:

- Hệt một bông hoa đào. Thật đẹp.

Tối đến cô Thảo cũng ôm Lụm ngủ, thủ thỉ kể những câu chuyện cổ tích mà ngày xưa mẹ cũng từng hay kể. Mỗi lần nhìn cô Thảo lúi húi nhặt củi, nấu cơm, cọ nồi niêu xoong chảo ngoài thềm giếng là tim Lụm nhói lên. Đến cả chiếc áo lao động đã sờn vai cũng giống mẹ quá chừng. Bởi vậy từng có lúc Lụm tránh mặt đi đâu đó cả ngày để cơn nhớ mẹ không trỗi dậy. Người làng thỉnh thoảng gặp Lụm hay bảo:

- Đừng gọi cô mãi thế. Gọi là mẹ Thảo dần đi cho quen.

Những lúc ấy cô Thảo thường kéo Lụm vào lòng cười bảo:

- Kệ thằng nhỏ thích gọi gì thì gọi, miễn nó thấy thoải mái trong lòng.

Lúc chỉ có hai người với nhau, nghe gió thổi ràn rạt bên tai, cái tái tê của cuối đông trồi dần lên da thịt, cô Thảo bảo:

- Sẽ chẳng ai trên đời có thể thay thế được mẹ của con.

Lụm gục đầu vào lòng cô, hực lên một tiếng rồi nức nở. Đấy là lần đầu tiên kể từ mùa lũ ấy, Thảo thấy thằng nhỏ khóc. Bao nhiêu buồn đau, mất mát từng thắt nghẹn trong lòng giờ mới khóc một trận đã đời. Nước mắt càng rơi lòng Lụm càng nhẹ nhõm.

Mùa xuân đến nhanh tự lúc nào không rõ. Đêm qua trước lúc đi ngủ còn thấy trời lùa xuống một cơn gió lạnh, đi tuần lạch cạch ngoài cửa, loạt xoạt trên những tờ lá chuối […]. Tiếng ông Vại nói từ phòng bên vọng sang:

- Kéo chăn đắp thằng nhỏ kẻo ho đấy con ơi.

Ấy vậy mà sáng nay thằng Lụm thức dậy lấy tay dụi mắt ngỡ ngàng thấy mùa xuân về đâu đó trong thứ nắng non sóng sánh như mật ong. Vẫn là gió đấy thôi, nhưng sáng nay gió mang hương vị khác. Hình như đám hoa cải mọc ven vườn đã nở. Hình như mấy thân cây trọc lá đã bắt đầu nảy lộc non. Lụm chạy ào ra sân ngửa cổ hứng mưa phùn lất phất.

[…]

Tối về cô Thảo đun sẵn nồi nước lá lôi Lụm ra kì cọ. Tay cô Thảo dừng lại bên chiếc bớt đỏ trên vai thằng nhỏ, khẽ cười bảo:

- Con nhìn xem, hoa đào ngoài vườn chưa kịp nở mà hoa đào trên vai con đã nở rồi.

- Hồi trước mẹ con hay nói ai có chiếc bớt đỏ như hoa sau này nhất định sẽ hạnh phúc. Có thật vậy không cô?

- Đúng thế. Cô cũng tin sau này Lụm nhất định sẽ trở thành một chàng trai tươi vui, hạnh phúc. Bởi con mang cả mùa xuân đang nở thắm trên vai.

Lụm nhắm mắt ngửa cổ cảm nhận sự ấm áp của từng gáo nước lá dội xuống người mình và những cánh hoa đào chầm chậm nở trên vai…

(Vũ Thị Huyền Trang, Những đám mây ngoan, NXB Kim Đồng, 2024, tr. 22-30)

Chú thích:

(1) Vũ Thị Huyền Trang sinh năm 1987, quê ở Phú Thọ. Tác giả đã viết nhiều sách dành cho thiếu nhi như Cỗ xe máy, Khi không còn bà, Chỉ thấy mây trời, Bình yên bóng mẹ, Hái trăng trên đỉnh núi... Tác giả đã đạt nhiều giải thưởng trong đó có Giải Tác giả trẻ do Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Việt Nam tặng năm 2022. Tập truyện Những đám mây ngoan tập hợp những tác phẩm dự Giải thưởng Văn học Kim Đồng lần thứ nhất 2023-2025.

(2) Ăn đụng: là cách một vài gia đình cùng chia nhau mổ một con lợn. Đây là một nét đẹp văn hoá trong ngày Tết cổ truyền ở nhiều làng quê Việt Nam.

 -----o0o----- 

HƯỚNG DẪN CHẤM MÔN NGỮ VĂN

Câu 1 (4,0 điểm)

1. Yêu cầu về kĩ năng

- Đảm bảo yêu cầu về bố cục và dung lượng của một bài văn nghị luận xã hội.

- Sử dụng kiến thức tiếng Việt để diễn đạt đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp; diễn đạt sáng tạo, mới mẻ, dùng từ độc đáo, lời văn giàu hình ảnh, có cảm xúc.

- Lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp, kết hợp lí lẽ chặt chẽ và bằng chứng sinh động cùng những trải nghiệm của bản thân để bày tỏ quan điểm riêng một cách thuyết phục, sâu sắc.

- Khuyến khích những bài viết sáng tạo.

2. Yêu cầu về nội dung

Thí sinh có thể triển khai bài làm theo nhiều cách khác nhau nhưng cần đảm bảo một số luận điểm cơ bản để thể hiện suy nghĩ của bản thân về vấn đề nghị luận. Thí sinh cần lựa chọn và phân tích một số bằng chứng tiêu biểu để làm sáng tỏ các luận điểm. Sau đây là gợi ý một hướng triển khai:

a) Giải thích

- Dựa vào đoạn trích, giải thích ý nghĩa của các hình ảnh, từ ngữ: cánh diều là hình ảnh tượng trưng cho ước mơ, cho những điều đẹp đẽ, ý nghĩa mà con người mong muốn đạt được; nuôi dưỡng khát vọng tự do bay lên như những cánh diều: ấp ủ, giữ gìn khát vọng vươn lên trên những khó khăn, nhọc nhằn của hiện thực đời sống để sống hết mình với những ước mơ, tự do hướng đến những điều tốt đẹp.

- Vấn đề nghị luận: cách sống luôn khát khao vươn lên, thỏa sức theo đuổi những ước mong về một cuộc đời tốt đẹp.

b) Bàn luận

- Cuộc sống còn nhiều khó khăn, vì vậy, ước mơ là một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần của con người. Nuôi dưỡng khát vọng vượt lên những áp lực của hiện thực, hướng về những điều tốt đẹp là biểu hiện của thái độ lạc quan, cách sống giàu nghị lực.

- Cách sống luôn ấp ủ, giữ gìn ước mơ, tự do trên hành trình hướng đến những điều đẹp đẽ mang lại nhiều ý nghĩa: giúp cân bằng cuộc sống, giải tỏa những áp lực, căng thẳng; mang lại động lực, hi vọng để cố gắng vươn lên, cải tạo hoàn cảnh, thay đổi bản thân, chinh phục những mục tiêu sống; làm cho cuộc sống trở nên nhẹ nhàng, giúp mỗi người cảm nhận niềm vui, hạnh phúc;...

- Mỗi người cần sống lạc quan; nuôi dưỡng những ước mơ phù hợp, ý nghĩa; chuẩn bị nền tảng vững vàng về năng lực, phẩm chất; sẵn sàng đối mặt, kiên trì vượt qua thử thách của hoàn cảnh khách quan…

- Hiện thực mà chúng ta đang sống có rất nhiều điều đẹp đẽ và ý nghĩa nên mỗi người không nên mơ mộng viển vông mà cần sống hết mình với hiện tại, đặt mình trong các mối quan hệ xã hội để phát hiện và tận hưởng giá trị của cuộc đời.

c) Rút ra bài học

- Nhận thức sự cần thiết của việc nuôi dưỡng khát vọng tự do bay lên; không ngừng nỗ lực để kiếm tìm và chinh phục những ước mơ có ý nghĩa.

- Để đạt được những điều đẹp đẽ có giá trị, mỗi người không chỉ mơ ước mà phải hành động để thực hiện, biến ước mơ thành hiện thực để nâng tầm chất lượng cuộc sống.

3. Biểu điểm

- Điểm 4: Đáp ứng tốt các yêu cầu trên, bố cục chặt chẽ, lập luận sắc sảo, lí lẽ thuyết phục, bằng chứng sinh động, diễn đạt linh hoạt.

- Điểm 3: Nắm vững yêu cầu đề, bài làm đáp ứng tương đối đầy đủ các yêu cầu trên, bố cục rõ ràng, chặt chẽ; đôi chỗ kĩ năng còn hạn chế, mắc một số lỗi về diễn đạt, dùng từ...

- Điểm 2: Hiểu vấn cần nghị luận nhưng giải thích và bàn luận chưa sâu, thiếu bằng chứng, mắc một số lỗi về diễn đạt, dùng từ, ngữ pháp.

- Điểm 1: Hiểu mơ hồ, bàn luận chung chung, thiếu bằng chứng, mắc nhiều lỗi về diễn đạt, dùng từ, ngữ pháp.

- Điểm 0: Lạc đề hoặc không làm bài.

Câu 2 (6,0 điểm)

1. Yêu cầu về kĩ năng

- Đảm bảo yêu cầu về bố cục và dung lượng của một bài văn nghị luận văn học.

- Sử dụng kiến thức tiếng Việt để diễn đạt đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp; diễn đạt sáng tạo, mới mẻ, dùng từ độc đáo, lời văn giàu hình ảnh, có cảm xúc.

- Sử dụng kiến thức văn học và trải nghiệm cá nhân để phân tích tác phẩm theo đặc trưng thể loại; liên hệ, so sánh với các tác phẩm khác, với bản thân, với bối cảnh… để làm sáng tỏ vấn đề cần nghị luận.

- Khuyến khích bài viết sáng tạo.

2. Yêu cầu về nội dung

Thí sinh có thể triển khai bài làm theo nhiều cách, nhiều hướng khác nhau nhưng cần làm sáng tỏ được những nội dung cơ bản sau:

a) Giải thích vấn đề lí luận và giới thiệu về tác giả, tác phẩm

- Giải thích vấn đề lí luận:

+ Văn chương tựa như những cánh diều được nới dây từ hiện thực cuộc đời còn lắm nhập nhoạng, gian khó: bắt nguồn từ hiện thực đời sống còn nhiều khó khăn, nhưng văn chương luôn chứa đựng những khát vọng, ước mơ về những điều đẹp đẽ, tươi sáng.

+ Những điều tác giả gửi gắm trong cánh diều văn chương là tư tưởng, tình cảm, là những ước vọng về một thế giới tốt đẹp được nhà văn bộc lộ trong tác phẩm.

- Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm

- Vấn đề nghị luận: Những khát vọng, ước mơ đẹp đẽ được gợi lên từ hiện thực đời sống còn nhiều khó khăn, gian khổ trong truyện ngắn Hoa đào nở trên vai.

b) Phân tích, chứng minh

- Văn chương và đời sống hiện thực có mối quan hệ chặt chẽ. Văn học luôn bắt nguồn từ những vấn đề phức tạp của xã hội và số phận con người. Tuy vậy, hiện thực được tái hiện trong tác phẩm thông qua cái nhìn và trí tưởng tượng của nhà văn chính là phương tiện để nhà văn bộc lộ, gửi gắm những tư tưởng sâu sắc, những tình cảm nhân văn, là nơi thể hiện những mong ước, khát vọng của nhà văn về một thế giới tốt đẹp.

- Phân tích truyện ngắn Hoa đào nở trên vai

Thí sinh có thể phân tích tác phẩm theo nhiều cách khác nhau nhưng cần đảm bảo định hướng lí luận. Sau đây là gợi ý:

+ Tác phẩm phản ánh bức tranh hiện thực đầy vất vả, đau thương của những phận người bất hạnh: sự yếu ớt, nhỏ nhoi của con người trước thiên tai; những tổn thương, mất mát của con người sau trận lũ kinh hoàng; những nhọc nhằn, lo toan của cuộc sống đời thường;...

+ Từ hiện thực gian khó, bất hạnh, truyện ngắn Hoa đào nở trên vai là nơi gửi gắm những tư tưởng, tình cảm đầy nhân văn, những ước vọng đẹp đẽ về cuộc sống: tình người ấm áp, sự tương trợ giúp con người xoa dịu những nỗi đau, chữa lành những tổn thương, cùng nhau vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt; niềm khao khát, hi vọng và tin tưởng vào một tương lai tươi sáng, hạnh phúc;.

+ Những ước mơ, khát vọng đẹp đẽ được thể hiện thông qua một cốt truyện giản dị, gần gũi với đời sống; lối kể chuyện tự nhiên; ngôn ngữ mộc mạc, dễ hiểu; tâm lí nhân vật được miêu tả vừa trực tiếp vừa gián tiếp; nghệ thuật xây dựng chi tiết tiêu biểu giàu ý nghĩa;.

c) Đánh giá

- Đánh giá chung về những tư tưởng, tình cảm sâu sắc, giàu tính nhân văn mà tác giả gửi gắm trong tác phẩm.

- Khẳng định giá trị, ý nghĩa cao đẹp mà văn chương mang lại cho cuộc sống con người và rút ra những bài học cho nhà văn, cho người đọc.

3. Biểu điểm

- Điểm 6: Đảm bảo đầy đủ các yêu cầu trên, bài viết có cảm xúc. Có thể còn mắc một vài sai sót nhỏ.

- Điểm 4-5: Nhận thức đề đúng, biết phân tích, đánh giá tác phẩm theo định hướng vấn đề lí luận, xác định được một số ý cơ bản nhưng kĩ năng phân tích, cảm nhận vài chỗ còn hạn chế, chưa sâu. Bố cục rõ. Mắc một số lỗi về diễn đạt.

- Điểm 2-3: Hiểu yêu cầu của đề nhưng kĩ năng làm bài còn nhiều hạn chế. Bài làm chủ yếu phân tích, cảm nhận chung chung, thiếu nhiều ý. Bố cục chưa rõ, mắc nhiều lỗi diễn đạt.

- Điểm 1: Hiểu yêu cầu của đề mơ hồ, kĩ năng nghị luận kém, bài viết lủng củng, phân tích, cảm nhận chung chung, thiếu định hướng, xa đề. Diễn đạt kém.

- Điểm 0: Lạc đề hoặc không làm bài.

Đăng nhận xét

Mới hơn Cũ hơn