LẶNG LẼ
SA PA(1)
(Trích,
Nguyễn Thành Long)
-
Chúng ta vừa qua Sa Pa, bác không nhận ra ư? - Người lái xe bỗng nhiên lại hỏi.
XEM THÊM: Sách nói Lặng lẽ Sa Pa
(Hình ảnh này không có trong văn bản được trích dẫn)
- Có. Tôi
có nhận ra. Sa Pa bắt đầu với những răng đào. Và với những đàn bò lang cổ có
đeo chuông ở các đồng cỏ trong lũng hai bên đường. Chỗ ấy là Tả Phình phải
không bác? - Nhà hoạ sĩ hỏi.
- Vâng. Bác không thích dừng lại Sa Pa ạ?
- Thích
chứ, thích lắm. Thế nào tôi cũng về ở hẳn đấy. Tôi đã định thế. Nhưng bây giờ
chưa phải lúc.
- Bác
sợ Sa Pa buồn chứ gì?
Nhà hoạ
sĩ phá lên cười
- Buồn
thì ai mà chả sợ? Nó như con gián gậm nhấm người ta. Tốt hơn là tránh nó để làm
việc đời.
Những
nét hớn hở trên mặt người lái xe chợt duỗi ra rồi bẵng đi một lúc, bác không
nói gì nữa. Còn nhà hoạ sĩ và cô gái cũng nín bặt, vì cảnh trước mặt bỗng hiện
lên đẹp một cách kì lạ. Nắng bây giờ bắt đầu len tới, đốt cháy rừng cây. Những
cây thông chỉ cao quá đầu, rung tít trong nắng những ngón tay bằng bạc dưới cái
nhìn bao che của những cây tử kinh(2) thỉnh thoảng nhô cái đầu
màu hoa cà lên trên màu xanh của rừng. Mây bị nắng xua, cuộn tròn lại tùng cục,
lăn trên các vòm lá ướt sương, rơi xuống đường cái, luồn cả vào gầm xe. Giữa
lúc đó, xe dừng sít lại. Hai ba người kêu lên một lúc:
- Cái
gi thế?
Bác
lái xe xướng to:
- Cho
xe nghỉ một lúc lấy nước. Luôn tiện bà con lót dạ. Nửa tiếng, các ông, các bà
nhé.
Trong
lúc mọi người xôn xao vui vẻ phía sau lưng, bác lái xe quay sang nhà hoạ sĩ nói
vội vã:
- Tôi
sắp giới thiệu với bác một trong những người cô độc nhất thế gian. Thế nào bác
cũng thích vẽ hắn.
Không
hiểu sao nói đến đây, bác lái xe lại liếc nhìn cô gái. Cô bất giác đỏ mặt lên.
- Một anh
thanh niên hai mươi bảy tuổi! Đây là đỉnh Yên Sơn, cao hai nghìn sáu trăm mét. Anh ta làm công tác khí tượng kiêm vật
lí địa cầu(3). Cách đây bốn năm, có hôm tôi cũng đang đi thế này chợt
thấy một khúc thân cây chắn ngang đường, phải hãm lại. Một anh thanh niên ở đâu
chạy đến, hè với tôi và khách đi xe đẩy khúc cây ra một bên cho xe đi. Hỏi ở
đây mà ai đẩy cây ra giữa đường thế này, anh chỉ đỏ mặt. Thì ra anh ta mới lên
nhận việc, sống một mình trên đỉnh núi, bốn bề chỉ cây cỏ và mây mù lạnh lẽo,
chưa quen, thèm người quá, anh ta kiếm kế dừng xe lại để gặp chúng tôi nhìn trông
và nói chuyện một lát. Kia, anh ta kia.
Những
lời giới thiệu trước ấy làm nhà hoạ sĩ già xức động mạnh khi nhìn thấy người
con trai tầm vóc bé nhỏ, nét mặt rạng rỡ từ trên sườn núi trước mặt chạy lại chỗ
xe đỗ. Ông không chú ý cô con gái cũng víu chặt vào vai ông, nửa vi tò mò, nửa
vì để tự vệ chống lại một cái gì đó. Người con trai đưa cho bác lái xe một gói
nhỏ:
- Cái
gì thế này? - Bác lái xe hỏi.
- Củ
tam thất(4) cháu vừa đào thấy. Cháu gửi bác gái ngâm rượu uống.
Hôm nọ bác chẳng bảo bác gái vừa ốm dậy là gì?
Bác
lái xe cũng rút từ túi cửa xe ra một gói giấy:
- Còn
đây là sách tôi mua hộ anh.
Người
con trai mừng quýnh cầm cuốn sách còn đang cười cười nhìn khắp khách đi xe bây
giờ đã xuống đất tất cả. Kẻ đang vươn vai, người ngồi bệt xuống ven đường giở
thức ăn mang theo ra. Bác lái xe dắt anh ta lại chỗ nhà hội hoạ và cô gái:
- Đây,
tôi giới thiệu với anh một hoạ sĩ lão thành nhé. Và cô đây là kĩ sư nông nghiệp.
Anh đưa khách về nhà đi. Tuổi già cần nước chè: ở Lào Cai đi sớm quá. Anh hãy
đưa ra cái món chè pha nước mưa thơm như nước hoa của Yên Sơn nhà anh.
Anh
thanh niên đỏ mặt, rõ ràng luống cuống:
- Vâng,
mời bác và cô lên chơi. Nhà cháu kia. Lên cái bậc cấp kia, trên ấy có cái nhà đấy.
Nước sôi đã có sẵn, nhưng cháu về trước một tí. Bác và cô lên ngay nhé.
Nói
xong, anh chạy vụt đi, cũng tất tả như khi đến.
- Bác
và cô lên với anh ấy một tí. Thế nào bác cũng thích vẽ anh ta. - Người lái xe lại
nói.
Hoạ sĩ
nghĩ thầm: “Khách tới bầt ngờ, chắc cu cậu chưa kịp quét tước dọn dẹp, chưa kịp
gấp chăn chẳng hạn.”. Ông rất ngạc nhiên khi bước lên bậc thang bằng đất, thấy
người con trai đang hái hoa. Còn cô kĩ sư chỉ “ô” lên một tiếng! Sau gần hai
ngày, qua ngót bốn trăm cây số đường dài cách xa Hà Nội, đứng trông mây mù
ngang tầm với chiếc cầu vồng kia, bỗng nhiên lại gặp hoa dơn, hoa thược dược,
vàng, tím, đỏ, hồng phấn, tổ ong... ngay lúc dưới kia là mùa hè, đột ngột và mừng
rỡ, quên mất e lệ, cô chạy đến bên người con trai đang cắt hoa. Anh con trai, rất
tự nhiên như với một người bạn đã quen thân, trao bó hoa đã cắt cho người con
gái, và cũng rất tự nhiên, cô đỡ lấy.
- Tôi
cắt thêm mấy cành nữa. Rồi cô muốn lấy bao nhiêu nữa, tuỳ ý. Cô cứ cắt một bó
rõ to vào. Có thể cắt hết, nếu cô thích. Tôi không biết kỉ niệm thế nào cho thật
long trọng ngày hôm nay. Bác và cô là đoàn khách thứ hai đến thăm nhà tôi từ Tết.
Và cô là cô gái thứ nhất từ Hà Nội lên tôi nhà tôi từ bốn năm nay.
Người
con trai nói to những điều đáng lẽ người ta chỉ nghĩ. Cũng là những điều ta ít
nghĩ. Việc ấy làm bác già và cô gái cảm động và cuốn hút ngay. Cô ôm bó hoa vào
ngực, bạo dạn nhìn thẳng vào mặt anh. Anh thanh niên bắt gặp cái nhìn đó, phủi vội
giọt mồ hôi trên sống mũi, mỉm cười, hạ giọng hỏi:
- Cũng
đoàn viên, phỏng?
- Vâng.
- Cô gái sẽ nói.
- Thôi,
chấm dứt tiết mục hái hoa - người con trai bất chợt quyết định. - Bác lái xe chỉ
cho ba mươi phút thôi. Hết năm phút rồi. Cháu nói qua công việc của cháu năm
phút. Còn hai mươi phút, mời bác và cô vào nhà uống chè, cho cháu nghe chuyện.
Cháu thèm nghe chuyện dưới xuôi lắm. Công việc của cháu cũng quanh quẩn ở mấy chiếc
máy ngoài vườn này thôi. Những cái máy vườn trạm khí tượng nào cũng có. Dãy núi
này có một ảnh hưởng quyết định với gió mùa đông bắc đối với miền Bắc nước ta.
Cháu ở đây có nhiệm vụ đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt đất,
dự vào việc báo trước thời tiết hằng ngày, phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu.
Đây là máy móc của cháu. Cái thùng
đo mưa này, ở đâu bác cũng trông thấy, mưa xong đổ nước ra
cái cốc li phân mà đo. Cái này là máy nhật quang kí(5), ánh sáng mặt trời xuyên qua cái kính này, đốt các mảnh
giấy này, cứ theo mức độ, hình dáng vết cháy mà định nắng. Đây là máy Vin, nhìn khoảng cách giữa các răng cưa mà đoán gió. Ban đêm không nhìn mây, cháu nhìn gió
lay lá, hay nhìn trời, thấy sao nào khuất, sao nào sáng, có thể nói được mây,
tính được gió. Cái máy nằm dưới sâu kia là máy đo chấn động vỏ quả đất. Cháu lấy
những con số, mỗi ngày báo về “nhà” bằng
máy bộ đàm(6): bốn giờ, mười một
giờ, bảy giờ tối, lại một giờ sáng. Bản báo ấy trong ngành gọi là “ốp”. Công việc
nói chung dễ, chỉ cần chính
xác. Gian khổ nhất là lần ghi và báo về lúc một giờ sáng. Rét, bác ạ. Ở đây có cả mưa tuyết đấy. Nửa đêm đang nằm trong chăn,
nghe chuông đống hồ chỉ muốn đưa tay tắt đi. Chiu ra khỏi chăn, ngọn đèn bão vặn
to đến cỡ nào vẫn thấy là không đủ sáng. Xách đèn ra vườn, gió tuyết
và lặng im ở bên ngoài như chỉ chực đợi mình ra là ào
ào xô tới. Cái lặng im lúc đó mới thật dễ sợ: nó như bị gió chặt ra tùng khúc, mà gió thì giống những nhát chổi lớn muốn quét đi tất cả, ném vứt
lung tung... Những lúc im lặng lạnh cóng mà lại hừng hực như cháy. Xong việc,
trở vào, không thể nào ngủ lại được.
Anh
thanh niên đang nói, dừng lại. Và tại sao hoạ sĩ cảm giác mình bối rối? Vì nhác
thấy người con gái nhỏ nhẻ, e lệ, đứng giữa các luống don, không cần hái hoa nữa,
ôm nguyên bó hoa trong tay, lắng tai nghe? Vị hoạ sĩ đã bắt gặp một điều thật
ra ông vẫn ao ước được biết, ôi, một nét thôi đủ khắng định một tâm hồn, khơi gợi
một ý sáng tác, một nét mới đủ là giá trị một chuyên đi dài.
- Anh
nói nữa đi. - Ông giục.
- Báo
cáo hết! - Người con trai vụt trở lại giọng vui vẻ. - Năm phút nữa là mười. Còn
hai mươi phút thôi. Bác và cô vào trong nhà. Chè đã ngấm rồi đấy.
Thì giờ
ngắn ngủi còn lại thúc giục cả chính người hoạ sĩ già. Ông theo liền anh thanh
niên vào trong nhà, đảo nhìn qua một lượt trước khi ngồi xuống ghế. Một căn nhà
ba gian, sạch sẽ, với bàn ghế, sổ sách, biểu đồ, thống kê, máy bộ đàm. Cuộc đời
riêng của anh thanh niên thu gọn lại một góc trái gian với chiếc giường con, một
chiếc bàn học, một giá sách. Hoạ sĩ còn đang nheo mắt cố đọc tên các sách trên
giá thì cô gái đã bước tới, dường như làm việc ấy hộ bố. Cô không trở lại bàn
giữa và ngồi ngay xuống trước chiếc bàn học con, lật xem bìa một cuốn sách rồi
để lại nguyên lật mở như cũ. Anh thanh niên rót nước chè mời bác già, ngoảnh lại
tìm cô gái, thấy cô đang đọc, liền bưng cái chén con đến yên lặng đặt trước mặt
cô.
Hoạ sĩ
nhấp chén trà nóng ba ngày nay ông mới lại gặp, không giấu vẻ thích thú, tự rót
lấy một chén nữa, nói luôn:
- Ta
thoả thuận thế này. Chuyện dưới xuôi, mười ngày nữa trở lại đây, tôi sẽ kể anh
nghe. Tôi sẽ trở lại, danh dự đấy. Tôi cũng muốn biết cái yên lặng lúc một giờ
sáng chon von trên cao nó thế nào. Bây giờ có cả ba chúng ta đây, anh hãy kể
chuyện anh đi. Sao người ta bảo anh là người cô độc nhất thế gian? Rằng anh
“thèm” người lắm?
Anh
thanh niên bật cười khanh khách:
- Các
từ ấy đều là của bác lái xe. Không, không đúng đâu. Một mình thì anh bạn trên
trạm đỉnh Phan-xi-păng (Fansipan) ba nghìn một trăm bốn mươi hai mét kia mới một
mình hơn cháu. Làm khí tượng, ở được cao thế mới là lí tưởng chứ.
Anh hạ
giọng nửa tâm sự, nửa đọc lại một điều rõ ràng đã ngẫm nghĩ nhiều:
- Hồi
chưa vào nghề, những đêm bầu trời đen kịt, nhìn kĩ mới thấy một ngôi sao xa,
cháu cũng nghĩ ngay ngôi sao kia lẻ loi một mình. Bây giờ làm nghề này cháu
không nghĩ như vậy nữa. Vả, khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi
là một mình được? Huống chi việc của cháu gắn liền với việc của bao anh em, đồng
chí dưới kia. Công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi, cháu buồn đến
chết mất. Còn người thì ai mà chả “thèm” hở bác? Mình sinh ra là gì, mình đẻ ở
đâu, mình vì ai mà làm việc? Đấy, cháu tự nói với cháu thế đấy. Bác lái xe đi,
về Lai Châu cứ đến đây dừng lại một lát. Không vào giờ “ốp” là cháu chạy xuống
chơi, lâu thành lệ. Cháu bỗng dưng tự hỏi: Cái nhớ xe, nhớ người ấy thật ra là
cái gì vậy? Nếu là nỗi nhớ phồn hoa đô hội thi xoàng. Cháu ở liền trong trạm
hàng tháng. Bác lái xe bao lần dùng, bóp còi toe toe, mặc, cháu gan lì nhất định
không xuống. Ấy thế là một hôm, bác lái phải thân hành lên trạm cháu. Cháu nói:
“Đấy, bác cũng chẳng “thèm” người là gì?”
Anh
xoay sang người con gái đang một mắt đọc cuốn sách, một mắt lắng nghe, chân cô
đung đưa khe khẽ, nói:
- Và
cô cũng thấy đấy, lúc nào tôi cũng có người trò chuyện. Nghĩa là có sách ấy mà.
Mỗi người viết một vẻ.
- Quê
anh ỏ đâu thế? - Hoạ sĩ hỏi.
- Quê
cháu ở Lào Cai này thôi. Năm trước, cháu tưởng cháu được đi xa lắm cơ đấy, hoá
lại không. Cháu có ông bố tuyệt lắm. Hai bố con cùng viết đơn xin ra lính đi mặt
trận. Kết quả: bố cháu thắng cháu một - không. Nhân dip Tết, một đoàn các chú lái
máy bay lên thăm cơ quan cháu ở Sa Pa. Không có cháu ở đấy. Các chú lại cử một
chú lên tận đây. Chú ấy nói nhờ cháu có góp phần phát hiện một đám mây khô, mà
ngày ấy, tháng ấy, không quân ta hạ được bao nhiêu phản lực Mỹ trên cầu Hàm Rồng.
Đối với cháu, thật là đột ngột, không ngờ lại là như thế. Chú lái máy bay có nhắc
đến bố cháu, ôm cháu mà lắc: “Thế là một - hoà nhé!”. Chưa hoà đâu bác ạ. Nhưng
từ hôm ấy, cháu sống thật hạnh phúc. Ơ, bác vẽ cháu đấy ư? Không, không, đừng vẽ
cháu! Để cháu giới thiệu với bác những người khác đáng cho bác vẽ hơn.
Phải,
người hoạ sĩ già vừa nói chuyện, tay vừa bất giác hí hoáy vào cuốn sổ tì lên đầu
gối. Hơn bao nhiêu người khác, ông biết rất rõ sự bất lực của nghệ thuật, của hội
hoạ trong cuộc hành trình vĩ đại là cuộc đời. Ông thấy ngòi bút của ông bất lực
trên từng chặng đường đi nhỏ của ông, nhưng nó như là một quả tim nữa của ông,
hay chính là quả tim cũ được “để cao” lên, do đó mà ông khao khát, mà ông yêu
thêm cuộc sống. Thế nhưng, đối với chính nhà hoạ sĩ, vẽ bao giờ cũng là một việc
khó, nặng nhọc, gian nan. Làm một bức chân dung, phác hoạ như ông làm đây, hay
rồi vẽ dầu, làm thế nào làm hiện lên được mẫu người ấy? Cho người xem hiểu được
anh ta, mà không phải hiểu như một ngôi sao xa? Và làm thế nào đặt được chính tấm
lòng của nhà hoạ sĩ vào giữa bức tranh đó? Chao ôi, bắt gặp một con người như
anh ta là một cơ hội hãn hữu cho sáng tác, nhưng hoàn thành được sáng tác còn
là một chặng đường dài. Mặc dù vậy, ông đã chấp nhận sự thử thách.
Để khỏi
vô lễ, người con trai vẫn ngồi yên cho ông vẽ, nhưng cho là mình không xứng với
thử thách ấy, anh vẫn nói:
-
Không, bác đừng mất công vẽ cháu! Cháu giới thiệu với bác ông kĩ sư ở vườn rau
dưới Sa Pa! Ngày này sang ngày khác ông ngồi im trong vườn su hào, rình xem cách
ong lấy phấn, thụ phấn cho hoa su hào. Rồi, để được theo ý mình, tự ông cầm một
chiếc que, mỗi ngày chín mười giờ sáng, lúc hoa tung cánh, đi từng cây su hào
làm thay cho ong. Hàng vạn cây như vậy. Để củ su hào nhân dân toàn miền Bắc nước
ta ăn được to hơn, ngọt hon trước. Ông kĩ sư làm cháu thấy cuộc đời đẹp quá.
Bác về Sa Pa vẽ ông ta đi, bác. Hay là, đồng chí nghiên cứu khoa học ở cơ quan
cháu ở dưới ấy đấy. Có thể nói đồng chí ấy trong tư thế sẵn sàng suốt ngày chờ
sét. Nửa đêm mưa gió rét buốt, mặc, cứ nghe sét là đồng chí choáng choàng chạy
ra. Như thế mười một năm. Mười một năm không một ngày xa cơ quan. Không đi đến
đâu mà tìm vợ. Đồng chí cứ sợ nhỡ có sét lại vắng mặt mình. Đồng chí đang làm một
cái bản đồ sét riêng cho nước ta. Có cái bản đồ ấy thì lắm của lắm bác ạ. Của
chìm nông, của chìm sâu trong lòng đất đều có thể biết, quý giá lắm. Trán đồng chí
cứ hói dần đi. Nhưng cái bản đồ sét thì sắp xong rồi.
Trong
cái lặng im của Sa Pa, dưới những dinh thự cũ kĩ của Sa Pa, Sa Pa mà chỉ nghe
tên, người ta đã nghĩ đến chuyện nghỉ ngơi, có những con người làm việc và lo nghĩ
như vậy cho đất nước.
Cũng
may mà bằng mấy nét, hoạ sĩ ghi xong lần đầu gương mặt của người thanh niên.
Người con trai ấy đáng yêu thật, nhưng làm cho ông nhọc quá. Với những điều làm
cho người ta suy nghĩ về anh. Và về những điều anh suy nghĩ trong cái vắng vẻ vời
vợi hai nghìn sáu trăm mét trên mặt biển, cuồn cuộn tuôn ra khi gặp người. Những
điều suy nghĩ đúng đắn bao giờ cũng có những vang âm, khơi gợi bao điều suy nghĩ
khác trong óc người khác, có sẵn mà chua rõ hay chưa được đúng. Ví dụ như quan
niệm về cái đất Sa Pa mà ông quyết đinh sẽ chỉ đến để nghỉ ngơi giai đoạn cuối
trong đời, mà ông yêu nhưng vẫn còn tránh. [...]
- Trời
ơi, chỉ còn có năm phút!
Chính
là anh thanh niên giật mình nói to, giọng cười nhưng đầy tiếc rẻ. Anh chạy ra
nhà phía sau, rồi trờ vào liền, tay cầm một cái làn. Nhà họa sĩ tặc lưỡi đứng dậy.
Cô gái cũng đứng lên, đặt lại chiếc ghế, thong thả đi đến chỗ bác già.
- Ô!
Cô còn quên chiếc mùi soa đây này!
Anh
thanh niên vừa vào, kêu lên. Để người con gái khỏi trở lại bàn, anh lấy chiếc
khăn tay còn vo tròn cặp giữa cuốn sách tới trả cho cô gái. Cô kĩ sư mặt đỏ ửng,
nhận lại chiếc khăn và quay vội đi.
- Chào
anh. - Đến bậu cửa, bỗng nhà họa sĩ già quay lại chụp lấy tay người thanh niên
lắc mạnh. - Chắc chắn rồi tôi sẽ trở lại. Tôi ở với anh ít hôm được chứ?
Đến lượt
cô gái từ biệt. Cô chìa tay ra cho anh nắm, cẩn trọng, rõ ràng, như người ta
cho nhau cái gì chứ không phải là cái bắt tay. Cô nhìn thẳng vào mắt anh - những
người con gái sắp xa ta, biết không bao giờ gặp ta nữa, hay nhìn ta như vậy.
- Chào
anh.
Lần đầu,
chính là anh thanh niên quay mặt đi. Anh ấn cái làn vào tay bác già và nói vội
vã:
- Cái
này để ăn trưa cho bác, cho cô và bác lái xe. Cháu có bao nhiêu là trứng, ăn
không xuể. Cháu không tiễn bác và cô ra xe được, vì gần tới giờ “ốp” rồi. Thôi
chào bác, chào cô. Bác sẽ trở lại nhé.
Hai
ông con theo bậc cấp bước xuống đồi, đến mặt đường nhìn lên, không thấy người
con trai đứng đấy nữa. Anh ta đã vào nhà trong. Ông xách cái làn trứng, cô ôm
bó hoa to. Lúc bấy giờ, nắng đã mạ bạc cả con đèo, đốt cháy rừng cây hừng hực
như một bó đuốc lớn. Nắng chiếu làm cho bó hoa càng thêm rực rỡ và làm cho cô
gái cảm thấy mình rực rỡ theo. Hai người lững thững đi về phía chiếc xe đỗ, im
lặng rất lâu. Bỗng bác già nhìn chiếc đồng hồ nói một mình:
-
Thanh niên bây giờ lạ thật! Các anh chị cứ như con bướm. Mà đã mười một giờ, đến
giờ “ốp” đâu? Tại sao anh ta không tiễn mình đến tận xe nhỉ?
Cô gái
liếc nhìn bác già một cái rất nhanh, tự nhiên hồi hộp, nhưng vẫn im lặng.
Lào
Cai tháng Sáu, Hà Nội tháng Bảy - 1970.
(Theo Sách giáo khoa Ngữ văn 8 - Tập hai – Kết nối tri thức và cuộc sống, NXB Giáo dục Việt Nam, 2022, Tr. 15-21)
-------------------------------------
(1) Sa
Pa: thị xã thuộc tỉnh Lào Cai, ngày nay là địa điểm du lịch nổi
tiếng của nước ta. Tuy nhiên ở thời điểm Nguyễn Thành Long sáng tác truyện ngắn
này, Sa Pa còn là nơi xa xôi, hiểm trở và hoang vu.
(2) Tử
kinh: một loại cây thân gỗ, hoa có nhiều màu như hồng, đỏ tím,
tím nhạt...
(3) Vật
lí địa cầu: khoa học nghiên cứu những tính chất vật
lí của Trái Đất và các quá trình vật lí xảy ra trong Trái Đất và khí quyển.
(4)
Tam thất: một loại thảo dược, sống lâu năm, thường
mọc ở một số vùng núi cao, rễ và củ dùng để chữa bệnh, bồi bổ sức khoẻ.
(5) Máy
nhật quang: máy đo cường độ ánh sáng mặt trời.
(6)
Máy bộ đàm: thiết bị di động cầm tay dùng để liên
lạc trực tiếp trong một nhóm máy bằng cách thu phát sóng vô tuyến.