Tạo hoá gây chi cuộc hí trường1,
Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương2.
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo3,
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương4.
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt5,
Nước còn cau mặt với tang thương6.
Nghìn năm gương cũ soi kim cổ,
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường7
(Bà
Huyện Thanh Quan, Tổng tập văn học Việt Nam, Tập 14, NXB Khoa học xã hội,
Tr. 977-978)
Chú thích:
(1) Hí trường: Nơi diễn trò, sân khấu.
(2) Tinh sương: Sao và sương, ý nói: Thời gian năm tháng trôi qua.
(3) Thu thảo: cỏ mùa thu (thường úa vàng, khô héo).
(4) Tịch dương: Chiều tà, mặt trời từ từ lặn sắp tôì.
(5) Tuế nguyệt: Năm tháng.
(6) Tang thương: Cũng như “bãi bể nương dâu”, vốn rút gọn từ “thương hải biến vi tang điền” (biển xanh biến thành bãi dâu) trong “Thần tiên truyện”, ý muốn nói: Cuộc đời biến đổi, tháng trầm...
(7) Đoạn trường: Đau đớn đến đứt ruột. Theo sách Sưu thần ký: Có người bắt được con vượn con, thường đem ra trước hiên nhà đùa giỡn. Vượn mẹ ngày nào cũng đến, ở trên cậy gần đầu nhà, kêu thảm thiết. ít lâu sau, vượn mẹ chết, xác rơi xuống gốc cây, ruột đứt từng đoạn (đoạn trường).
Tiểu sử Bà
Huyện Thanh Quan
Bà Huyện Thanh
Quan, tên thật là Nguyễn Thị Hinh, là một trong những nữ sĩ tài danh hiếm có của
văn học Việt Nam thời trung đại. Bà sinh ra tại làng Nghi Tàm, hiện thuộc quận
Tây Hồ, Hà Nội. Chưa rõ năm sinh và năm mất của bà, nhưng cuộc đời và sự nghiệp
của bà gắn liền với thế kỷ XIX. Chồng bà, ông Lưu Nghị, làm tri huyện Thanh
Quan (nay thuộc tỉnh Thái Bình), vì vậy, bà được gọi là Bà Huyện Thanh Quan.
Vì có tài văn chương,
Bà Huyện Thanh Quan đã được vua Tự Đức triệu vào Huế cho giữ chức Cung trung
giáo tập: dạy các công chúa và phi tần học tập.
Với tài năng văn
chương hiếm có, bà để lại dấu ấn sâu sắc trong nền văn học trung đại Việt Nam,
dù chỉ còn lại sáu bài thơ Đường luật nổi tiếng.
Phong cách
sáng tác của Bà Huyện Thanh Quan
Thơ của Bà Huyện
Thanh Quan mang đậm dấu ấn của văn học trung đại Việt Nam, với những chủ đề như
hoài cổ, tình yêu quê hương và nỗi nhớ về thời vàng son đã qua.
Các sáng tác của
Bà Huyện Thanh Quan có lời thơ thanh nhã, ý cổ kính, thường mang nặng nỗi u hoài nhớ
tiếc quá khứ của vương triều Lê và Thăng Long.
Chủ đề hoài cổ
là điểm nhấn rõ rệt trong thơ của bà. Các tác phẩm thường thể hiện sự tiếc nuối
về những giá trị đã mất, phản ánh sự thay đổi của thời gian và xã hội. Bà sử dụng
hình ảnh thiên nhiên để gợi lên nỗi nhớ nhung về quá khứ, như trong bài thơ nổi
tiếng "Thăng Long thành hoài cổ". Bài thơ mô tả sự suy tàn của kinh
thành Thăng Long, nơi từng là trung tâm huy hoàng nhưng nay chỉ còn lại vẻ đìu
hiu, vắng lặng.
Thiên nhiên
trong thơ Bà Huyện Thanh Quan cũng xuất hiện với vẻ đẹp cổ kính, yên bình,
nhưng đồng thời gợi lên nỗi buồn và sự cô đơn của con người trước sự biến chuyển
của thời gian. Cảnh vật thiên nhiên không chỉ là bối cảnh, mà còn là cách bà diễn
tả tâm trạng của mình, như trong bài "Qua Đèo Ngang" - một trong những
tác phẩm nổi tiếng của bà, với cảnh núi non hoang sơ, gợi lên sự cô độc, lạc
lõng giữa đất trời.
Ngôn từ của Bà
Huyện Thanh Quan tinh tế, cô đọng và hàm súc. Thơ bà rất chuẩn mực về niêm luật,
giàu nhạc điệu, và thường sử dụng các hình ảnh mang tính tượng trưng và ẩn dụ để
truyền tải thông điệp. Bà thường kết hợp ngôn ngữ dân gian và các từ ngữ gợi cảm,
giúp tạo nên chiều sâu cho các tác phẩm.
Một số bài thơ
tiêu biểu của Bà Huyện Thanh Quan
Mặc dù không
sáng tác nhiều, những bài thơ của Bà Huyện Thanh Quan vẫn để lại dấu ấn sâu sắc
trong lòng người đọc. Hầu hết các tác phẩm của bà được viết bằng chữ Nôm, theo
thể thơ Đường luật, với những bài nổi bật như:
Thăng Long
thành hoài cổ: Tác phẩm nổi tiếng bày tỏ nỗi buồn
và sự tiếc nuối về sự suy tàn của kinh đô Thăng Long.
Qua chùa Trấn
Bắc: Miêu tả cảnh vật tại chùa Trấn Bắc, một nơi
linh thiêng.
Qua Đèo Ngang: Tác phẩm nổi tiếng với tâm trạng cô đơn khi bà qua đèo Ngang, đối
diện với thiên nhiên hoang vu và rộng lớn.
Chiều hôm nhớ
nhà: Bài thơ thể hiện nỗi nhớ nhà da diết của tác
giả khi đứng trước cảnh chiều tà.
Tức cảnh chiều
thu: Bài thơ tả cảnh thu buồn, mang lại cảm giác lắng
đọng, suy tư.
Cảnh đền Trấn
Võ và Cảnh Hương Sơn: Những bài thơ tả cảnh
vật thiên nhiên tại các địa danh nổi tiếng, kết hợp với tâm trạng hoài niệm của
tác giả.